Tổng quan:
– Chiều dài: 103 m
– Độ rộng: 10,8 m
– Mớn nước: 3,1 m
– Lượng giãn nước: 1674 tấn, 1924 tấn (đầy tải)
– Thủy thủ đoàn: 200 người
– Động lực đẩy: 2 trục, 2 động cơ diesel, 14.000 mã lực
– Tốc độ: 26 hl/g (48 km/h)
– Vũ khí:
+ 2 x 100 mm nòng kép (tầm bắn 22 km)
+ 2-4 x 37 mm AAA nòng đôi (tầm bắn 8,5 km)
+ 2 x HQ-61B SAM bệ kép (tầm bắn 10 km)
+ 2 x 62 mm
+ 5 x ống rocket ASW RL (tầm bắn 1,2 km).

Các khinh hạm Type 053 (tên NATO – Giang Hồ, Giang Vệ và Giang Đông) đã trở thành xương sống của lực lượng khinh hạm Hải quân Trung Quốc (PLAN) từ năm 1977 cho đến gần đây. Tất cả chúng đều bắt nguồn từ nỗ lực tạo ra một thiết kế tốt hơn so với lớp Riga Type 065 Thành Đô những năm 1950 và phiên bản được sửa đổi của nó, Type 065 Giang Nam. Cùng một Viện 701 (Vũ Hán) đã thiết kế Type 053K (ký hiệu K từ “Kong” có nghĩa là “phòng không”) như một biến thể của Type 065 theo yêu cầu của Hải quân Trung Quốc vào giữa những năm 1960. Chúng được chế tạo đặc biệt để hộ tống các tàu khu trục lớp Type 051 Luda mới. Trên thực tế, đây đã trở thành lớp tàu chiến lớn nhất có trọng tải đó được đóng tại Trung Quốc vào những năm 1970-1980, nhiều chiếc còn được xuất khẩu sang 4 nước, cũng là loại mới. Từ tổng số này, 13 chiếc vẫn đang hoạt động và 11 chiếc PLAN đã loại biên, được thay thế bằng những chiếc có năng lực hơn như Type 054A (lớp Giang Khải II). Lớp hoàn chỉnh có gần 59 tàu mạnh với 8 phiên bản khác nhau, khinh hạm AA Type 053K (Giang Đông) là phiên bản đầu tiên.
Bản thảo đầu tiên do Viện 701 thực hiện vào năm 1965-1967. Trong thiết kế, các yêu cầu của PLAN bao gồm 3 trục chân vịt, một tuabin khí kết hợp với động cơ diesel tạo ra tốc độ 38 hl/g. Thật không may trong thực tế, những con số lạc quan này đã không bao giờ thực hiện được. Sau khi vật lộn với những thiết bị và kỹ năng sẵn có, nhóm nghiên cứu đã quay lại với một động cặp cơ diesel cho 2 trục chân vịt ở tốc độ tối đa 30 hl/g (trong các cuộc thử nghiệm).
Ngoài Type 053K (phòng không), một biến thể khác là Type 053H (chống hạm) ra đời nhưng cả hai đều có chung hầu hết các thành phần và thân tàu. Lượng giãn nước của toàn bộ lớp Type 053 dao động từ 1.700 đến 2.000 tấn, chiều dài 103 m, rộng 10,8 đến 11,3 m, mớn nước 3,05 đến 3,19 m.
Thân vỏ và kết cấu của Type 053K nhanh chóng được xây dựng, nhưng đã thất bại, do được đưa vào trang bị rất muộn về vũ khí (từ được đặt đóng vào năm 1970 đến giữa những năm 1980) và được cho nghỉ hưu chỉ sau 8-9 năm phục vụ đầy đủ, chỉ với 2 chiếc được xây dựng. Chiếc 053K đầu tiên là 531 Yingtan, được chế tạo vào năm 1971 và 1972, hạ thủy năm 1973 và 1974 nhưng chỉ được đưa vào hoạt động vào năm 1977 vì không được trang bị vũ khí trong nhiều năm. 532 Zhongdong là con tàu thứ hai, chỉ nhận được đầy đủ trang bị vũ khí theo kế hoạch vào giữa những năm 1980 và cả hai được rút khỏi biên chế vào năm 1992, đây là một thời gian hoạt động khá ngắn. Như vậy, có thể coi Type 053K gần như là khinh hạm thử nghiệm. Chiếc đầu tiên bị dỡ bỏ vào năm 1994 trong khi chiếc còn lại được biến thành một con tàu bảo tàng ở Thanh Đảo. 532 Giang Đông thậm chí đã bị vứt bỏ khi vẫn chưa hoàn thiện vào năm 1982. Rất hiếm những bức ảnh chụp được 531 Ưng Đàm, và giờ đây người ta có thể chụp cận cảnh tại căn cứ hải quân Thanh Đảo, nơi con tàu được bảo quản từ năm 1995. Dù sao thì thân tàu và hầu hết các chi tiết đã được tái sử dụng cho phiên bản Type 53H tiếp theo thành công, vì vậy đây là một bước tiến quan trọng trong thiết kế Frigate của Trung Quốc.
Tuy vậy, Trung Quốc tuyên truyền tô phồng chiến tích của 531 Ưng Đàm khi là một trong ba tàu tham gia trận “Thảm sát Trường Sa” khi Trung Quốc đánh chiếm trái phép Đá Gạc Ma của Việt Nam. Khi đó 3 tàu Trung Quốc dùng pháo các loại bắn thẳng vào 3 tàu vận tải thô sơ của Việt Nam.
Trang bị cho Type 053K có tên lửa đất đối không HQ-61 phóng từ hai bệ phóng trên cấu trúc thượng tầng phía trước và phía sau, đồng thời nạp đạn cho các cửa sập bên dưới. Nhưng các hệ thống này cần thời gian để hoạt động hoàn toàn và được đưa vào phục vụ từ năm 1986. Chúng cũng có hai tháp pháo tự động 100 mm mới do Trung Quốc thiết kế (tầm bắn 22 km) bị trì hoãn cùng khoảng thời gian. Điều này được hoàn thành bởi 2 tháp pháo AAA 37 mm do Trung Quốc chế tạo dựa trên thiết kế của Liên Xô. Về tác chiến chống ngầm, các tàu cũng được trang bị hai bệ phóng tên lửa 5 ống Type 62 (tầm bắn 1,2 km) trên boong phía trước và hai giá phóng sâu phía sau. Các thiết bị điện tử vẫn chưa được biết đến khá nhiều chi tiết, mặc dù các bức ảnh cho thấy những năm 1970 có nguồn gốc từ Liên Xô có thể đã được nâng cấp các radar dẫn đường điện tử và radar dò tìm bề mặt cộng với hệ thống dẫn đường SAM.
Tên lửa HQ-61 là SAM đa năng thế hệ đầu tiên của Trung Quốc, được giới thiệu vào năm 1986 và được phát triển bởi Cục Hàng không Vũ trụ Thượng Hải. Chúng có trọng lượng 310 kg, dài 3,99 m và đường kính 28,6 cm, sải cánh 116 cm, được trang bị đầu đạn HE với ngòi nổ Impact/Proximity, được đẩy bằng động cơ tên lửa bằng nhiên liệu rắn và có khả năng bán kính 10 km, với trần bay 8 km ở tốc độ Mach 3. HQ-61 được dẫn đường bởi các hệ thống SARH/ARH./.