Tổng quan:
– Nguồn gốc: Israel
– Nhà sản xuất: Israel Aerospace Industries (IAI)
– Chuyến bay đầu tiên: năm 1994
– Tải trọng mang theo: 250 kg
– Chiều dài: 8,5 m
– Sải cánh: 16,6 m
– Cánh bay: IAI SA-21
– Trọng lượng cất cánh tối đa: 1.250 kg
– Động cơ: 1 × Rotax 914 4 xi-lanh động cơ piston đối diện nằm ngang, làm mát bằng không khí và nước, 86 kW (115 mã lực), nhiên liệu xăng AVGAS 100
– Tiêu hao nhiên liệu: 15-30 lít/giờ
– Thời gian chuẩn bị trước khi bay: 01 giờ 25 phút
– Cánh quạt: cánh quạt đẩy 3 cánh
– Tốc độ tối thiểu: 110 km/g (60 hl/g)
– Tốc độ tối đa: 220 km/h (120 hl/g)
– Thời gian bay tối đa: 40 giờ
– Trần phục vụ: 10.000 m
– Tốc độ cất cánh: 2,5 m/s
– Tải trọng cánh: 89 kg/m2
– Khí tài:
+ Camera ngày: tầm phát hiện (mục tiêu 2×2 m) 35 km
+ Camera hồng ngoại: tầm phát hiện (mục tiêu 2×2 m) 37 km
+ Đo xa laser: 0,1-20 km
+ Radar đa nhiệm EL/M-2022U (khả năng quản lí mục tiêu: đến 2.000 mục tiêu bề mặt, 128 mục tiêu trên không).
IAI Heron (Machatz-1) là một máy bay không người lái UAV (unmanned aerial vehicle) độ cao trung bình được phát triển bởi bộ phận Malat của Israel Aerospace Industries. Nó có khả năng hoạt động độ bền lâu ở độ cao trung bình MALE (Medium Altitude Long Endurance) trong thời gian lên đến 52 giờ ở độ cao 10,5 km. Nó đã chứng minh được 52 giờ bay liên tục, nhưng thời gian bay tối đa hoạt động hiệu quả là ít hơn, theo trọng tải và hồ sơ chuyến bay. Một phiên bản nâng cao, Heron TP, còn được gọi là IAI Eitan.
Vào ngày 11/9/2005, có thông báo rằng Lực lượng Phòng vệ Israel đã mua các hệ thống Heron trị giá 50 triệu USD.
Heron điều hướng bằng thiết bị định vị GPS bên trong và cấu hình chuyến bay được lập trình trước (trong trường hợp đó hệ thống hoàn toàn tự chủ từ khi cất cánh đến hạ cánh), ghi đè thủ công từ một trạm điều khiển mặt đất hoặc kết hợp cả hai. Nó có thể tự động quay trở lại căn cứ và hạ cánh trong trường hợp mất liên lạc với trạm mặt đất. Hệ thống có khả năng khởi động và phục hồi hoàn toàn tự động ALR (automatic launch and recovery) và trong mọi thời tiết.
Heron có thể mang theo một loạt các cảm biến, bao gồm camera nhiệt độ (hồng ngoại) và giám sát mặt đất trên không bằng ánh sáng nhìn thấy, hệ thống tình báo (COMINT và ELINT) và các hệ thống radar khác nhau, tổng trọng lượng lên đến 250 kg. Heron cũng có khả năng thu nhận mục tiêu và điều chỉnh pháo binh.
Các cảm biến trọng tải giao tiếp với trạm điều khiển mặt đất trong thời gian thực, sử dụng liên kết dữ liệu đường ngắm trực tiếp hoặc thông qua rơ-le trên không/vệ tinh. Giống như hệ thống định vị, trọng tải cũng có thể được sử dụng ở chế độ tự hành hoàn toàn được lập trình trước hoặc hoạt động từ xa theo thời gian thực thủ công hoặc kết hợp cả hai.
Tại Triển lãm Hàng không Singapore tháng 2/2014, IAI đã công bố phiên bản cải tiến Super Heron của Heron UAS. Super Heron có động cơ diesel 200 mã lực giúp tăng tốc độ leo dốc và hiệu suất của nó. Tầm bắn của nó là 250 km theo đường ngắm và 1.000 km theo điều khiển vệ tinh. Độ bền là 45 giờ ở độ cao tối đa 9.100 m. Tốc độ bay là 60-80 hl/g (110-150 km/h) và tốc độ tối đa trên 150 hl/g (280 km/h).
Heron được sử dụng đáng kể trong Chiến dịch Cast Lead ở Gaza 2008-2009. Trong quá trình triển khai, mỗi đội chiến đấu của lữ đoàn được bố trí một phi đội UAV để hỗ trợ chặt chẽ. Đây là hoạt động đầu tiên của Israel trong đó UAV, trực thăng và máy bay chiến đấu được phân bổ trực tiếp cho các lực lượng mặt đất mà không cần chỉ huy trung tâm của IAF cho phép xuất kích. Các đội điều khiển yểm trợ trên không hoạt động cùng với các chỉ huy lữ đoàn tại mặt trận nhấn mạnh việc chỉ huy lữ đoàn sử dụng các khí tài trực tiếp. Nhận thức tình huống ở mức độ cao đã đạt được bằng cách duy trì ít nhất một chục UAV bay trên Gaza mọi lúc. Giám sát trên không được cung cấp bởi Heron và Hermes 450 UAV và trực thăng tấn công Apache. Cùng với sự phối hợp giữa không quân và bộ binh mặt đất, lực lượng mặt đất của Israel có thể sử dụng sự hợp tác với Cơ quan An ninh Israel bằng cách có các đặc nhiệm trực thuộc các đơn vị tiền phương. Sự phối hợp giữa các lực lượng này cho phép nâng cao nhận thức chiến thuật và khả năng tấn công các mục tiêu quan trọng về thời gian.
Các quốc gia khác vận hành Heron bao gồm Singapore, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Pháp khai thác một phái sinh của Heron có tên Eagle hoặc Harfang. Năm 2008, Canada công bố kế hoạch thuê Heron để sử dụng ở Afghanistan, bắt đầu từ năm 2009. Vào giữa năm 2009, Úc đã thuê hai chiếc Herons như một phần của hợp đồng thuê trị giá hàng triệu đô la để vận hành các phương tiện này ở Afghanistan. Vào đầu tháng 7/2013, Heron đã đạt 15.000 giờ bay qua Afghanistan. Úc kết thúc việc sử dụng Heron để hỗ trợ Chiến dịch Slipper ở Afghanistan vào ngày 30/11/2014, sau khi nước này đã thực hiện được 27.000 giờ bay. Lực lượng Không quân Hoàng gia Úc cho loại biên hai chiếc Heron vào tháng 6/2017.
Các biến thể của Heron
– Thổ Nhĩ Kỳ vận hành một biến thể đặc biệt của Heron, sử dụng các hệ thống phụ quang điện do Thổ Nhĩ Kỳ thiết kế và sản xuất. Ví dụ, Heron Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng Hệ thống xác định mục tiêu và ảnh nhiệt trên không ASELFLIR-300T do ASELSAN của Thổ Nhĩ Kỳ thiết kế và sản xuất. Những chiếc Heron Thổ Nhĩ Kỳ cũng có động cơ mạnh hơn để bù đắp cho trọng tải tăng thêm do ASELFLIR-300T nặng hơn tạo ra. Đây là hệ thống FLIR tương tự hiện đang được sử dụng trên trực thăng tấn công TAI/AgustaWestland T129 và cả UAV TAI Anka MALE. Các nhân viên của IAI khẳng định rằng Heron của Thổ Nhĩ Kỳ “với hiệu suất nâng cao của nó, tốt hơn tất cả các UAV Heron hiện có đang hoạt động trên toàn thế giới”. Công ty Hàng không Vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ (TUSAŞ) cung cấp các dịch vụ bảo trì và đại tu cho các Herons của mình.
– EADS Harfang – biến thể do Pháp vận hành
Có trong biên chế các nước: Azerbaijan, Brazil, Canada, Ecuador, Liên minh Châu Âu, Đức, Hy Lạp, Ấn Độ, Israel, Singapore, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ (Tất cả các sản phẩm xuất khẩu của IAI Heron đều không có vũ khí).
Việt Nam: 3 chiếc tính đến năm 2018./.
(Xem thêm: TOP 5 UAV CÁNH BẰNG HIỆN ĐẠI NHẤT HIỆN NAY)