Tổng quan:
– Lượng giãn nước: 2150 tấn
– Chiều dài: 86 m
– Độ rộng: 13,4 m
– Mớn nước: 3,9 m
– Tốc độ: 16 hl/g
– Tầm hoạt động: 2500-3000 hl ở vận tốc 11 hl/g
– Khả năng đi biển: 12 ngày
– Động cơ đẩy: 3 động cơ diesel 8NVD48A-2U của Đông Đức – 1320 mã lực mỗi động cơ
– Vũ khí: 8 x 14,5 mm (4 cho phiên bản tàu cứu thương).
Tàu hàng lớp Qiongsha là một lớp tàu trong Hải quân Trung Quốc (PLAN). Những con tàu này chủ yếu được sử dụng để tiếp tế cho các đơn vị đồn trú ở Biển Đông. Có 3 phiên bản của lớp này, bao gồm phiên bản tàu chở hàng, tàu cứu thương và tàu chở quân. Do Pan Hui-Quan và Huang Zhong-Fu thiết kế.
Phiên bản tàu hàng
Tàu hàng lớp Qiongsha trong biên chế của PLAN dựa trên lớp tàu hàng dân sự Qiongsha 1. Điểm khác biệt giữa phiên bản quân sự và dân sự là phiên bản quân sự được trang bị súng máy hạng nặng. Phiên bản dân sự chở được 219 hành khách với 2 hạng ghế trên 2 cabin khác nhau, 2 cabin này được phiên bản quân sự sử dụng cho chức năng vừa chở quân vừa cấp cứu y tế. Các quân nhân đồn trú trên các đảo, khi bị bệnh, thay vì phải đưa vào bờ (mất đến 2-3 ngày) thì có thể được sơ cấp cứu trên các tàu dạng này. Các bệnh nhân nặng có thể được cứu chữa tạm thời ở tàu trên đường về cơ sở bờ cũng là điều kiện để được điều trị tốt hơn sau đó. Điều này làm cho số lượng hành khách ít hơn phiên bản dân sự. Khả năng chuyên chở hoàng hóa của phiên bản quân sự giống hệt phiên bản dân sự: 200 tấn hàng rắn, 150 tấn hàng lỏng. Trong số 6 tàu thuộc lớp này, ban đầu tất cả chúng đều được đóng dưới dạng phiên bản tàu hàng, và chỉ sau đó một số tàu đã được chuyển đổi sang các phiên bản khác nhau.
Phiên bản tàu cứu thương
Ngoài lực lượng đồn trú, nhu cầu đối với ngư dân là rất lớn, trong khi dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu, phương pháp điều trị thô sơ, đặt ra cần có một phiên bản chuyên dụng hơn để cung cấp dịch vụ điều trị y tế tốt hơn. Do đó, 2 trong số 6 tàu được quyết định chuyển đổi thành tàu y tế chuyên dụng. 2 tàu Nan-Yun 832 và Nan-Yun 833 đã được chuyển đổi với phiên bản y tế có khả năng điều trị đồng thời 130 bệnh nhân. Khả năng chuyên chở hành khách không còn nữa do chuyển đổi, nhưng những con tàu này vẫn giữ được sức chở hàng hóa là 350 tấn. Vũ khí trang bị giảm một nửa, từ 8 khẩu súng máy hạng nặng ban đầu xuống còn 4.
Tuy nhiên, việc triển khai các tàu này cho thấy vấn đề cố hữu do thiết kế ban đầu: thiết kế tàu chở hàng có nghĩa là độ ổn định của tàu trong điều kiện biển động kém, trong thời tiết xấu, tàu sẽ rung lắc lớn và một số hoạt động y tế như phẫu thuật vì thế không thể thực hiện. Do đó, Nan-Yun 832 được chuyển đổi trở lại vai trò tàu chở hàng và 833 đổi tên thành Nan-Kang (Kang trong tiếng Trung Quốc, nghĩa là Y tế) còn hoạt động với vai trò cung cấp dịch vụ y tế. Đây là lý do tại sao phân loại chính thức của Trung Quốc đối với phiên bản này là vận tải cứu thương, thay vì tàu bệnh viện, vì nó không thể thực hiện một số nhiệm vụ y tế do hạn chế của thời tiết. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu được từ những chuyến vận chuyển cứu thương này đã đúc kết thành những bài học quý giá trong quá trình phát triển tàu bệnh viện thực thụ sau này, tàu bệnh viện Type 920.
Phiên bản tàu chở quân
Một số tàu hàng lớp Qiongsha được chuyển đổi thành tàu chở quân, mặc dù số lượng chính xác vẫn chưa được biết. Các tàu chở quân này vẫn duy trì sức chở hàng ban đầu là 350 tấn, nhưng thiếu khả năng điều trị y tế khẩn cấp do cơ sở chăm sóc y tế trên tàu phiên bản chở hàng bị xóa để tạo thêm không gian cho chở quân bổ sung, với số lượng hành khách được vận chuyển tăng lên khoảng 400 người.
Lớp Qiongsha trong biên chế của PLAN được đặt tên gồm 2 chữ kết hợp với số hiệu có 3 chữ số phía sau (trừ tàu phiên bản cứu thương Nan-Kang). Chữ là “Yun” nghĩa là “vận tải”, “Nan” (Nam) là chỉ thuộc Hạm đội Nam Hải. Số hiệu phía sau có thể được thay đổi do quy ước riêng của Hạm đội. Ví dụ: Nan-Yun 830.
Số hiệu: 830, 831, 832, 834, 835, 833 (cả 6 tàu đều thuộc biên chế Hạm đội Nam Hải, vào biên chế từ những năm 1980)./.