PHÁO TÀU 37 mm TYPE 76, H/PJ-76A

Tổng quan:
– Kiểu loại: Pháo tàu 37mm Type 76A (tên quy ước mới – H/PJ-76A)
– Xuất xứ: Trung Quốc
– Kiểu loại: Hệ thống vũ khí áp sát
– Đưa vào sử dụng: Cuối năm 1970
– Sản xuất từ: những năm 1970 đến những năm 2000
– Kiểu loại pháo: 2 x 37mm L/63 pháo tự động
– Tốc độ bắn:
+ 375 viên/phút mỗi nòng
+ 750 viên/phút kết hợp, theo chu kỳ
+ 180-200 viên/phút kết hợp, thiết thực
– Phạm vi bắn: 4,5 km (thực tế); 9,4 km (lý thuyết)
– Độ cao: 7,8 km (lý thuyết)
– Sơ tốc đầu nòng: 1.000 m/s
– Hệ thống nạp đạn: Tự động
– Góc hướng: 360°
– Góc tầm: -10° đến +75°
– Radar điều khiển hỏa lực I-band Type 340 hoặc Type 341
– Trọng lượng: Khoảng 5 tấn.

Type 76A

Type 76 37 mm nòng đôi là một loại pháo tàu cỡ nhỏ do Trung Quốc chế tạo cho mục đích phòng không và chống tàu.

Type 76 bắt nguồn từ Type 61, là sự cải tiến của quân đội Trung Quốc từ mẫu V-11 của Liên Xô – pháo phòng không tự động 37 mm M1939 (61-K). Vào cuối những năm 1950, Hải quân Trung Quốc (PLAN) đã cải tiến pháo tàu V-11 của Liên Xô bằng cách kết hợp hoạt động bán tự động để giảm nhân lực cần thiết để vận hành pháo. Kết quả là Type 61, được đặt tên theo năm mà sự phát triển được cạnh tranh. Type 61 kết hợp chế độ hoạt động bán tự động, nhưng để phòng ngừa, chế độ hoạt động thủ công của khẩu V-11 nguyên bản của Liên Xô cũng được giữ lại như một phương án dự phòng.

Ngoài mong muốn, Type 61 không được đưa vào sản xuất hàng loạt vì Trung Quốc vẫn đang phục hồi sau cuộc hỗn loạn chính trị do Đại nhảy vọt gây ra, trong thời gian đó, nhiều chương trình quân sự đã bị thu hẹp hoặc hủy bỏ hoàn toàn. Do đó, Type 61 chỉ được đưa vào biên chế Trung Quốc với số lượng rất hạn chế và chưa từng xuất hiện trong bất kỳ trận chiến nào.

Mặc dù còn hạn chế, kinh nghiệm thu được từ Type 61 đã chứng minh rằng thiết kế chế độ hoạt động bán tự động là đáng tin cậy và chế độ hoạt động thủ công là không cần thiết. Năm 1965, mẫu Type 65 được phát hành mà không có chế độ vận hành thủ công, và việc sản xuất hàng loạt dự kiến ​​bắt đầu vào năm sau. Tuy nhiên, giống như tiền nhiệm của nó, việc sản xuất hàng loạt theo kế hoạch của Type 65 cũng gặp phải tình trạng hỗn loạn chính trị, lần này là dưới ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa. Cũng như Type 61, Type 65 chỉ được đưa vào biên chế Trung Quốc với số lượng rất hạn chế. Nó đã tham chiến thực sự, nhưng không phải chống lại kẻ thù nước ngoài: trong cuộc giao tranh giữa các Hồng vệ binh trong cuộc Cách mạng Văn hóa, Lực lượng Vệ binh ở Tứ Xuyên đã thu giữ pháo Type 65 từ nhà máy sản xuất và sử dụng nó trong các trận chiến với nhau.

Type 76 là sự phát triển tiếp theo của Type 65. Quân đội Trung Quốc muốn cải tiến hơn nữa Type 65 bằng cách kết hợp chế độ hoạt động hoàn toàn tự động, nhưng bất ổn chính trị từ Cách mạng Văn hóa đã làm trì hoãn sự phát triển của loại kế nhiệm Type 65 cho đến khi nó được ra mắt cuối cùng vào năm 1976 .

Type 76 kết hợp chế độ hoạt động hoàn toàn tự động, mặc dù chế độ hoạt động bán tự động vẫn được giữ lại như một biện pháp dự phòng. Tốc độ bắn của loại này có thể đạt tốc độ tối đa 400 phát/phút/nòng (luôn phiên). Loại này đã được sử dụng trong trận hải chiến Trường Sa 1988 và được hải quân Trung Quốc đánh giá cao.

Type 76F là sự phát triển nhằm khắc phục những thiếu sót cố hữu của Type 76 trước đó: do bệ pháo mở, Type 76 phải chịu các yếu tố tự nhiên như độ mặn và độ ẩm, do đó cần được bảo trì liên tục. Ngoài ra, Type 76 không có liên kết trực tiếp với hệ thống điều khiển hỏa lực FCS (fire-control system). Type 76F được phát triển để giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng một tháp pháo được bao bọc hoàn toàn bao gồm FCS quang điện tử (optronic). Toàn bộ hệ thống có thể được xử lý bởi một thủy thủ tại vị trí chiến đấu dành cho người điều khiển tích hợp với pháo. Ngày nay, Type 76F vẫn được phục vụ trên nhiều tàu phục vụ của hải quân Trung Quốc trong khi Type 76A tiên tiến hơn và đắt tiền hơn được sử dụng trên các tàu chiến mặt nước.

Type 76A là loại hoàn toàn tự động và khép kín. Không giống như Type 76F, pháo hoàn toàn tự động, với chế độ hoạt động bán tự động và bảng điều khiển một người được loại bỏ. Ngoài FCS quang điện tử trên Type 76F, Type 76A được liên kết với FCS radar. Tuy nhiên, tốc độ bắn tối đa giảm so với Type 76, giảm từ 400 xuống còn 375 phát/phút/nòng. Ngoài vai trò phòng không và phòng tàu, Type 76A còn có thể được sử dụng như một hệ thống vũ khí tầm gần (CIWS).

H/PJ-76A

H/PJ-76A là sự phát triển của Type 76A và là thành viên mới nhất của dòng Type 76. Điểm khác biệt đáng kể nhất giữa nó và tiền nhiệm là khẩu H/PJ-76A sử dụng một lượng lớn nhựa gia cố bằng sợi thủy tinh để thay thế nhôm nguyên bản được sử dụng trong Type 76A, do đó giảm trọng lượng và chi phí bảo trì của pháo./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *