Triết học lịch sử (Philosophy of history) là nghiên cứu triết học về lịch sử và chuyên ngành của nó. Thuật ngữ này được đặt ra bởi triết gia người Pháp Voltaire.
Trong triết học đương đại, một sự phân biệt đã phát triển giữa triết học suy đoán về lịch sử và triết học phê phán về lịch sử, hiện được gọi là phân tích (analytic). Sự chia rẽ giữa các cách tiếp cận này có thể được so sánh một cách gần đúng, bằng phép loại suy và dựa trên sức mạnh của các ảnh hưởng khu vực và học thuật, với sự chia rẽ trong các cam kết giữa triết học phân tích và triết học lục địa trong đó cách tiếp cận phân tích là thực dụng và cách tiếp cận suy đoán chú ý nhiều hơn đến siêu hình học (hoặc phản siêu hình học) của các lực lượng quyết định như ngôn ngữ hoặc hiện tượng học của nhận thức ở cấp độ các giả định nền tảng.
Ở cấp độ thực hành, cách tiếp cận phân tích đặt câu hỏi về ý nghĩa và mục đích của quá trình lịch sử trong khi cách tiếp cận suy đoán nghiên cứu nền tảng và ý nghĩa của lịch sử và phương pháp lịch sử. Tên của những cách tiếp cận này bắt nguồn từ sự phân biệt giữa triết học phê phán và triết học suy đoán của C.D. Broad.
Sự khác biệt giữa các cách tiếp cận này thể hiện rõ trong những bất đồng giữa Hume và Kant về vấn đề nhân quả. Hume và Kant có thể được xem xét lại – bằng sự lạc hậu mang tính biểu đạt – tương ứng là phân tích và suy đoán. Các nhà sử học như Foucault hoặc Hannah Arendt, những người có xu hướng được nói đến như các nhà lý thuyết hoặc triết gia trước khi họ được công nhận là các nhà sử học, phần lớn có thể được xác định với cách tiếp cận suy đoán trong khi lịch sử học thuật chung chung có xu hướng gắn chặt với các cách tiếp cận phân tích và tường thuật.
Nguồn gốc
Trong tác phẩm Thi pháp (Poetics) của mình, Aristotle (384-322 TCN) cho rằng thơ ca có tính ưu việt hơn lịch sử vì thơ ca nói về những điều nên hoặc phải đúng chứ không chỉ đơn thuần là những điều đúng.
Herodotus, một người đương thời với Socrates vào thế kỷ V TCN, đã phá vỡ truyền thống Homer về việc truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tác phẩm “Investigations”, còn được gọi là Histories. Herodotus, được coi là nhà sử học có hệ thống đầu tiên, và sau đó là Plutarch (46-120 CN) đã tự do sáng tạo ra các bài phát biểu cho các nhân vật lịch sử của họ và chọn chủ đề lịch sử của họ với mục đích cải thiện đạo đức cho người đọc. Lịch sử được cho là dạy những ví dụ tốt để người ta noi theo. Giả định rằng lịch sử “nên dạy những ví dụ tốt” đã ảnh hưởng đến cách các nhà văn tạo ra lịch sử.
Từ thời kỳ Cổ điển đến thời Phục hưng, trọng tâm của các nhà sử học thay đổi giữa các chủ đề được thiết kế để cải thiện nhân loại và sự tận tụy với sự thật. Lịch sử chủ yếu bao gồm các tiểu sử về các vị vua và thơ sử thi mô tả các hành động anh hùng như Bài ca Roland – về Trận chiến đèo Roncevaux (778) trong chiến dịch đầu tiên của Charlemagne nhằm chinh phục bán đảo Iberia.
Vào thế kỷ XIV, Ibn Khaldun, người mà George Sarton coi là một trong những triết gia đầu tiên của lịch sử, đã thảo luận chi tiết về triết lý lịch sử và xã hội của mình trong tác phẩm Muqaddimah (1377) của ông. Tác phẩm của ông đại diện cho đỉnh cao của các tác phẩm trước đó của các nhà xã hội học Hồi giáo thời trung cổ trong các lĩnh vực đạo đức Hồi giáo, khoa học chính trị và sử học, chẳng hạn như các tác phẩm của al-Farabi (872-950), Ibn Miskawayh, al-Dawani và Nasir al-Din al-Tusi (1201-1274). Ibn Khaldun thường chỉ trích “mê tín nhàn rỗi và chấp nhận dữ liệu lịch sử một cách thiếu phê phán”. Ông đã giới thiệu một phương pháp khoa học vào triết học lịch sử (mà Dawood coi là một cái gì đó “hoàn toàn mới đối với thời đại của ông”) và ông thường gọi đó là “khoa học mới” của mình, hiện gắn liền với sử học. Phương pháp lịch sử của ông cũng đặt nền tảng cho việc quan sát vai trò của nhà nước, truyền thông, tuyên truyền và sự thiên vị có hệ thống trong lịch sử.
Đến thế kỷ XVIII, các nhà sử học đã chuyển sang một cách tiếp cận thực chứng hơn -tập trung vào sự thật càng nhiều càng tốt, nhưng vẫn để mắt đến việc kể lại lịch sử có thể hướng dẫn và cải thiện. Bắt đầu với Fustel de Coulanges (1830-1889) và Theodor Mommsen (1817-1903), các nghiên cứu lịch sử bắt đầu chuyển sang một hình thức khoa học hiện đại hơn. Vào thời đại Victoria, các nhà sử học tranh luận ít hơn về việc liệu lịch sử có nhằm mục đích cải thiện người đọc hay không, và nhiều hơn về những nguyên nhân nào đã thay đổi lịch sử và cách người ta có thể hiểu được sự thay đổi lịch sử.
…