Tổng quan (DHC-6 Twin Otter)
DHC-6 Series 400 (của Việt Nam)
– Tổ lái: 1-2 người
– Số ghế: 17 (phiên bản thủy phi cơ VN mua)
– Chiều dài: 15,77 m
– Sải cánh: 19,8 m
– Diện tích cánh: 39 m2
– Khối lượng rỗng: 3.121 kg
– Chiều cao: 5,9 m
– Trọng lượng cất cánh tối đa: 5.670 kg
– Trọng lượng hạ cánh tối đa: 5.579 kg
– Vận tốc tối đa: 170 hl/g (314 km/h) khi tuần tra biển
– Vận tốc ổn định: 150 hl/g (278 km/h) khi tuần tra biển
– Vận tốc hành trình: 58 hl/g (107 km/h khi tuần tra biển, khi hạ cánh)
– Tầm hoạt động: 1480 km; 1832 km bay đường dài
– Nhiên liệu: 1466 L; 1811 L bay đường dài
– Trần bay: 8138 m
– Động cơ (×2): Pratt & Whitney PT6A-34/PT6A-35 turboprop
– Vận tốc lên cao: 8,1 m/s
– Công suất: 6.132 kW/kg
de Havilland Canada DHC-6 Twin Otter là một máy bay vận tải của Canada được thiết kế nhằm có thể cất và hạ cánh bằng đường băng ngắn (STOL-Short Takeoff and Landing). DHC-6 có thể cất và hạ cánh từ mặt nước nên được xếp vào dạng Thủy phi cơ và được phát triển bởi tập đoàn hàng không de Havilland Canada và sản xuất bởi tập đoàn Viking Air. Nhờ khả năng cất-hạ cánh trên mặt nước nên DHC-6 chủ yếu phục vụ các chuyến bay biển. Máy bay được sử dụng trong cả mục đích dân sự như thực hiện các chuyến bay thương mại, dịch vụ hay chụp ảnh môi trường và quân sự như các hoạt động tuần tra bờ biển, cứu thương chiến trường (MEDEVAC) và cả huấn luyện phi công.
Việc phát triển DHC-6 Twin Otter bắt đầu từ đầu năm 1964. Đến đầu năm 1965 thì nguyên bản DHC-6 đầu tiên ra đời, nó bay thử vào ngày 20/5/1965. Ý định của các nhà thiết kế là thay thế chiếc máy bay DHC-3 Otter 1 động cơ Pratt & Whitney R-1340-S1H1-G Wasp công suất 448 kW bằng chiếc DHC-6 Otter 2 động cơ. Từ “Twin” trong tiếng Anh có nghĩa là “đôi” tức ta có thể hiểu phiên bản DHC-6 Twin Otter là phiên bản hiện đại hóa hoàn toàn của chiếc DHC-3 Otter sản xuất từ năm 1951. Đến năm 1966 thì máy bay chính thức được giới thiệu.
Trải qua 48 năm phát triển, dòng máy bay DHC-6 đã có nhiều phiên bản được ra đời mà phổ biến nhất là các phiên bản Series 100, Series 110, Series 200 và Series 300. Các Series 100-300 trang bị 2 động cơ Pratt & Whitney Canada PT6, chúng được sản xuất từ năm 1965-1988. Sau đó, dây chuyền sản xuất DHC-6 ngừng hoạt động.
Đến năm 2006, tập đoàn Viking Air tung ra thị trường phiên bản Series 400 được trang bị 2 động cơ Pratt & Whitney Canada PT6-34/35 cùng các thiết bị điện tử và hiện đại phục vụ các nhiệm vụ quân sự và tìm kiếm cứu nạn. Nó có thể thực hiện tốt cho các nhiệm vụ tuần tra trên biển. DHC-6 được trang bị radar và nó sẽ phát huy tốt khả năng tác chiến khi được phối hợp với các tàu ngầm. Phiên bản này đi vào sản xuất từ năm đến nay và hiện đang là phiên bản mới nhất.
Có trong biên chế các nước (Quân sự và lực lượng an ninh): Afghanistan, Úc, Canada, Chile, Colombia, Ecuador, Ethiopia, Pháp, Haiti, Jamaica, Malaysia, México, Nepal, Nicaragua, Na Uy, Panama, Philippines, Paraguay, Peru, Sudan, Thụy Sĩ, Uganda, Hoa Kỳ, Việt Nam
Hải quân Việt Nam đặt mua vào năm 2010 6 chiếc DHC-6 thuộc Series 400. Chuyển giao trong năm 2013-2014 (VNT-771, VNT-772, VNT-773, VNT-775, VNT-777, VNT-778)
Năm 1976, một chiếc -300 mới có giá 700.000 đô la, vẫn có giá trị hơn 2,5 triệu đô la vào năm 2018 mặc dù -400 được giới thiệu, nhiều năm sau.
Twin Otter đã trở nên phổ biến với các hoạt động nhảy dù thương mại. Nó có thể chở tới 22 người nhảy dù ở độ cao hơn 17.000 ft (một tải trọng lớn so với hầu hết các máy bay khác trong ngành).
Các biến thể
Tính đến tháng 8/2006, có tổng cộng 584 máy bay Twin Otter (tất cả các biến thể) vẫn được phục vụ trên toàn thế giới.
DHC-6 Series 100: Máy bay vận tải tiện ích STOL hai động cơ, chạy bằng hai động cơ phản lực cánh quạt Pratt & Whitney Canada PT6A20 công suất 550 shp (432 kW).
DHC-6 Series 110: Biến thể của Series 100 được chế tạo để tuân theo BCAR (Quy định về hàng không dân dụng của Anh).
DHC-6 Series 200: Phiên bản cải tiến.
DHC-6 Series 300: Máy bay vận tải tiện ích STOL hai động cơ, chạy bằng hai động cơ phản lực cánh quạt 680 shp (715 ESHP) (462 kW) Pratt & Whitney Canada PT6A-27.
DHC-6 Series 300M: Máy bay vận tải quân sự đa năng.
DHC-6 Series 310: Biến thể của Series 300 được chế tạo để tuân theo BCAR (Quy định về hàng không dân dụng của Anh).
DHC-6 Series 320: Biến thể của Series 300 được chế tạo để tuân thủ các Quy định về Hàng không Dân dụng của Úc.
DHC-6 Series 300S: 6 chiếc máy bay trình diễn được trang bị 11 chỗ ngồi, cánh quạt và hệ thống phanh chống trượt. Tất cả kể từ đó đã được hoàn nguyên về sự phù hợp Series 300.
Viking Air DHC-6 Series 400: Sản xuất Viking Air, được giao lần đầu tiên vào tháng 7/2010, được trang bị hai động cơ Pratt & Whitney Canada PT6A-34 và có sẵn trên thiết bị hạ cánh tiêu chuẩn, phao thẳng, phao lội nước, ván trượt, ván trượt bánh xe hoặc thiết bị hạ cánh nổi trung gian (“lốp xe lãnh nguyên” ).
Thủy phi cơ Viking Air DHC-6 Series 400S: Phiên bản thủy phi cơ 17 chỗ ngồi của Viking Air Series 400 với phao đôi và các biện pháp chống ăn mòn cho khung máy bay, động cơ và hệ thống nhiên liệu. Việc giao hàng cho khách hàng đã lên kế hoạch từ đầu năm 2017. Nhẹ hơn 230 kg so với 400.
CC-138: Máy bay vận tải, tìm kiếm và cứu nạn STOL hai động cơ cho Lực lượng Canada. Dựa trên máy bay Series 300.
UV-18A: Máy bay vận tải tiện ích STOL hai động cơ cho Lực lượng Vệ binh Quốc gia Alaska của Quân đội Hoa Kỳ.
UV-18B: Máy bay huấn luyện nhảy dù cho Học viện Không quân Hoa Kỳ. Dựa trên máy bay Series 300.
UV-18C: Chỉ định của Quân đội Hoa Kỳ cho ba chiếc Viking Air Series 400 được giao vào năm 2013./.