TÀU PHÓNG LÔI LỚP Turya T-68, PROJECT 206

Tổng quan:
– Lớp trước: Tàu phóng lôi lớp Shershen (Project 206 Shtorm)
– Thời gian phục vụ: 1972-nay
– Hoàn thành: 51
– Đang hoạt động: Khoảng 26 chiếc (năm 2012)
– Lượng giãn nước: 220 tấn (tiêu chuẩn), 250 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 39,6 m
– Độ rộng: 7,6 m
– Mớn nước: 4 m
– Động lực đẩy: 3× M503 B2 – diesels; 15.000 hp
– Tốc độ: 40 hl/g (74 km/h)
– Tầm hoạt động: 600 hl với tốc độ 37 hl/g; 1450 hl với tốc độ 14 hl/g
– Thủy thủ đoàn: tối đa 30
– Khí tài:
+ Radar: Pot Drum, Muff Comb, High Pole
+ Sonar: Foal Tail
– Vũ khí:
+ 4 x ống phóng ngư lôi 533 mm, chủ yếu dùng loại ngư lôi 53-65
+ 1 x AK-725 57 mm (phía sau)
+ 1 x 25 mm (nòng đôi, phía trước).

Tàu phóng lôi lớp Turya (tiếng Nga – Торпедные катера проекта 206-М) là tên gọi của NATO cho loại tàu phóng lôi cánh ngầm cao tốc lớp T-68 Project 206M «Шторм» do Liên Xô nghiên cứu, thiết kế và phát triển dựa trên tàu phóng lôi lớp Shershen vào những năm 1970.

Thật ra thì tàu phóng lôi lớp Shershen (tên NATO) cũng gọi cho tàu phóng lôi cao tốc lớp T-3 Project 206 Shtorm. Chữ M ở cụm số từ Project 206 thực ra là viết tắt của chữ Модернизированный có nghĩa là “hiện đại hóa”. Có nghĩa là tàu phóng lôi Project 206M là phiên bản biến thể hiện đại hóa của tàu phóng lôi Project 206.

Sau khi thực hiện thành công tàu phóng lôi cao tốc lớp T-3 Project 206 vào những năm 1960 thì Liên Xô vẫn tiếp tục nghiên cứu và đã cho ra đời phiên bản hiện đại hóa của nó mang tên tàu phóng lôi cao tốc lớp T-68 Project 206M (Turya). Với một số cải tiến mới, phiên bản T-68 có trọng lượng nặng hơn (tăng từ 172 lên 220 tấn) phiên bản T-3 nhưng vẫn giữ nguyên vận tốc 40 hl/g, thay bệ phóng tên lửa phòng không tầm thấp SA-N-5 bằng pháo phòng không AK-725 57 mm 2 nòng (phiên bản hải quân của pháo phòng không S-60 AZP 57 mm), 1 pháo đa năng 2M-3M 25 mm 2 nòng, loại bỏ giá rải mìn. Tàu có trang bị các loại radar mới, thêm sonar giúp phát hiện tàu ngầm nhưng các phiên bản xuất khẩu lại không có sonar. 4 ống phóng ngư lôi 533 mm có khả năng tiêu diệt các tàu chiến mặt nước và cả tàu ngầm; loại ngư lôi trang bị là loại 53-VA cỡ 533 mm có chiều dài 7,9 m, nặng 2 tấn và lắp đầu nổ nặng 210 kg. Ngư lôi có độ sâu chiến đấu 6-8 m, độ sâu sục sạo 12-16 m, tốc độ 29 km/h, cự li bắn 11 km.

Sau này còn có 1 phiên bản nâng cấp khác của Turya mang tên Turya PTF với tốc độ tăng lên 42 hl/g, cơ cấu vũ khí giữ nguyên, chỉ nâng cấp ống phóng lôi.

Hiện còn khoảng 26-30 tàu tên phóng lôi T-68 còn hoạt động. Từ những năm 1972 đến 1976, Liên Xô bắt đầu xuất khẩu một số tàu T-68 cho các đồng minh xã hội chủ nghĩa của mình nhưng không nhiều nước có loại tàu này, tàu phóng lôi T-3 Shershen được xuất khẩu nhiều hơn.

Có trong biên chế các nước:
– Liên Xô, Nga và Latvia (Liên Xô chuyển giao).
– Nga còn 5 tàu hoạt động: 1 ở Hạm đội Baltic; 1 ở Hạm đội Biển Đen; 3 ở Hạm đội Caspi.
– Latvia: 2 tàu còn hoạt động.
– Cuba: 9 chiếc còn hoạt động bao gồm cả một số chiếc được nâng cấp lên Turya PTF.
– Ethiopia: 2 chiếc còn hoạt động.
– Campuchia: 2 chiếc còn hoạt động.
– Seychelles: 1 chiếc còn hoạt động.
Việt Nam: 5 chiếc còn hoạt động (phiên bản Turya PTF)./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *