CĂN CỨ QUÂN SỰ (Military base)

Căn cứ quân sự (military base) là một cơ sở được sở hữu và vận hành trực tiếp bởi hoặc cho quân đội hoặc một trong các chi nhánh của quân đội, nơi trú ẩn của phương tiện, bố trí trang thiết bị và nhân viên quân sự, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc huấn luyện và tác chiến. Căn cứ quân sự luôn cung cấp chỗ ở cho một hoặc nhiều đơn vị, nhưng nó cũng có thể được sử dụng làm trung tâm chỉ huy, nơi huấn luyện hoặc nơi diễn tập. Trong hầu hết các trường hợp, các căn cứ quân sự đều dựa vào sự trợ giúp từ bên ngoài để hoạt động. Tuy nhiên, một số căn cứ phức tạp nhất định có thể tự tồn tại trong thời gian dài vì chúng có thể tự cung cấp thực phẩm, nước uống và các nhu yếu phẩm khác cho quân nhân của mình khi bị bao vây. Căn cứ dành cho hàng không quân sự được gọi là căn cứ không quân quân sự (military air bases), hay đơn giản là “căn cứ không quân” (air bases). Căn cứ cho tàu quân sự được gọi là căn cứ hải quân (naval bases).

Căn cứ quân sự được quản lí rất khác nhau trong thời bình và thời chiến. Người gác, người bảo vệ có thể mang súng hoặc công cụ hỗ trợ.

Định nghĩa thẩm quyền

Các căn cứ quân sự ở Hoa Kỳ được coi là tài sản liên bang và tuân theo luật liên bang. Dân thường (chẳng hạn như thành viên gia đình của các sĩ quan quân đội) sống trong các căn cứ quân sự thường phải tuân theo luật dân sự và hình sự của các bang nơi đặt căn cứ. Các căn cứ quân sự có thể bao gồm từ các tiền đồn nhỏ đến các thành phố quân sự có sức chứa lên tới 100.000 người. Một căn cứ quân sự có thể thuộc về một quốc gia hoặc bang khác với lãnh thổ xung quanh nó.

Tên gọi

Tên được sử dụng thường đề cập đến loại hoạt động quân sự diễn ra tại căn cứ, cũng như danh pháp truyền thống được sử dụng bởi một nhánh dịch vụ (quân binh chủng).

Căn cứ quân sự có thể có nhiều tên khác nhau, chẳng hạn như sau:
– Bãi chứa đạn dược (Ammunition dump);
– Kho vũ khí (Armory);
– Pháo đài (Arsenal);
– Sân bay tăng cường (Advance airfield);
– Doanh trại (Barracks);
– Tiền đồn biên giới (Border outpost);
– Tiền đồn chiến đấu COP (Combat outpost);
– Căn cứ hỗ trợ hỏa lực FSB hay FB (Fire support base);
– Cơ sở điều hành chuyển tiếp FOB (Forward Operating Base);
– Vị trí điều hành chuyển tiếp FOS (Forward operating site);
– Công sự (Fortification);
– Khu đồn trú (Garrison);
– Nơi bố trí (Installation);
– Căn cứ chung (Joint base);
– Căn cứ điều hành chính MOB (Main Operating Base);
– Căn cứ thủy quân lục chiến (Marine Corps base);
– Căn cứ không quân, sân bay hoặc chiến trường (Military airbase, airfield or field);
– Trại quân sự (Military camp);
– Cơ sở phóng tên lửa (Missile launch facility);
– Trạm không quân hải quân (Naval air station);
– Căn cứ hải quân (Naval base);
– Đốc tàu hải quân (Naval dockyard);
– Xưởng đóng tàu hải quân (Naval shipyard);
– Đài quan sát (Observation post);
– Tiền đồn OP (Outpost);
– Pháo đài (Presidio);
– Bãi thử nghiệm (Proving ground);
– Nơi đóng quân (Reservation);
– Sân bay vệ tinh (Satellite airfield);
– Trạm (Station);
– Căn cứ tàu ngầm (Submarine base).

Các loại hình căn cứ

Tùy thuộc vào ngữ cảnh, thuật ngữ “căn cứ quân sự” có thể đề cập đến bất kỳ cơ sở nào (thường là cố định) có lực lượng vũ trang của một quốc gia hoặc thậm chí các lực lượng bán quân sự có tổ chức như công an, cảnh sát, dân quân hoặc vệ binh quốc gia. Ngoài ra, thuật ngữ này có thể chỉ đề cập đến một cơ sở chỉ được sử dụng bởi quân đội (hoặc có thể các lực lượng liên quan đến chiến đấu trên bộ khác, chẳng hạn như thủy quân lục chiến), ngoại trừ căn cứ được sử dụng bởi lực lượng không quân hoặc hải quân. Điều này phù hợp với những ý nghĩa khác nhau của từ “quân đội” (military).

Một số ví dụ về các căn cứ quân sự lâu dài được hải quân và không quân trên thế giới sử dụng là HMNB Portsmouth ở Portsmouth, Vương quốc Anh, Trạm Không quân Hải quân Đảo Whidbey, Bang Washington, Hoa Kỳ hoặc Căn cứ Không quân Ramstein, Đức (hai căn cứ cuối cùng được chỉ định làm Cơ sở điều hành chính). Các ví dụ khác về căn cứ quân sự không cố định hoặc bán cố định bao gồm Căn cứ điều hành tiền phương (FOB), Căn cứ hậu cần (căn cứ Log) và Căn cứ hỏa lực (FB).

Một căn cứ quân sự cũng có thể chứa lượng lớn vật tư quân sự để hỗ trợ hậu cần, kỹ thuật quân sự. Hầu hết các căn cứ quân sự đều bị hạn chế đối với công chúng và thường chỉ những nhân viên được ủy quyền mới có thể ra vào (có thể là quân nhân hoặc người thân của họ và nhân viên dân sự được ủy quyền).

Ngoài các cơ sở quân sự chính trên một cơ sở nhất định, các căn cứ quân sự thường (nhưng không phải luôn luôn) có nhiều cơ sở khác nhau dành cho quân nhân. Những cơ sở này khác nhau tùy theo từng quốc gia. Căn cứ quân sự có thể cung cấp nhà ở cho quân nhân, bưu điện và cơ sở ăn uống (nhà hàng, căng-tin). Họ cũng có thể cung cấp các cơ sở hỗ trợ như nhà hàng thức ăn nhanh, trạm xăng, nhà thờ, trường học, ngân hàng, cửa hàng tiết kiệm, bệnh viện hoặc phòng khám (phòng khám nha khoa hoặc sức khỏe, cũng như phòng khám thú y), chỗ ở, rạp chiếu phim, và ở một số quốc gia, cửa hàng bán lẻ (thường là siêu thị như Commissary và Department Store, chẳng hạn như AAFES). Về các cơ sở quân sự của Mỹ, Gia đình, Tinh thần, Phúc lợi và Giải trí FMWR (Family, Morale, Welfare and Recreation) cung cấp các cơ sở như trung tâm thể dục, thư viện, sân gôn, trung tâm du lịch, trung tâm dịch vụ cộng đồng, khu cắm trại, trung tâm phát triển trẻ em, trung tâm thanh thiếu niên, xưởng ô tô, sở thích/nghệ thuật và trung tâm thủ công, trung tâm bowling và trung tâm cộng đồng.

Các căn cứ được Lực lượng Dự bị Không quân Hoa Kỳ sử dụng có xu hướng là các căn cứ đang hoạt động của Không quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, có một số Căn cứ Không quân Dự bị, chẳng hạn như Dobbins ARB, Georgia và Grissom ARB, Indiana, cả hai đều là căn cứ cũ của Không quân Hoa Kỳ. Các cơ sở của Lực lượng Vệ binh Quốc gia Không quân thường được đặt tại các sân bay dân dụng trong khu vực an toàn mà công chúng không thể tiếp cận, mặc dù một số đơn vị đóng tại các căn cứ của USAF và một số căn cứ do ANG điều hành, chẳng hạn như Selfridge ANGB, Michigan. Các cơ sở hỗ trợ cho việc lắp đặt Lực lượng Vệ binh Quốc gia và Lực lượng Dự bị Không quân có xu hướng không rộng rãi như các căn cứ đang hoạt động (nghĩa là chúng thường không có chỗ ở tại căn cứ (mặc dù Kingsley Field ANGB, Oregon, là một ngoại lệ), các phòng khám (ngoại trừ cơ sở phẫu thuật), hoặc cửa hàng bán lẻ (mặc dù một số có cửa hàng tiện lợi nhỏ).

Ở Nga, “căn cứ quân sự” hoặc “căn cứ hải quân” không chỉ giới hạn ở việc biểu thị một cơ sở được mô tả là hàng rào cụ thể và thường bao gồm một lãnh thổ rộng lớn trong đó có thể đặt một số cơ sở riêng biệt. Ví dụ: 1) Căn cứ Hải quân Sevastopol của Nga bao gồm các cơ sở riêng lẻ nằm trong thành phố Sevastopol (nơi neo đậu bên bờ sông, kho vũ khí, khu tổng hành dinh và căn cứ bộ binh hải quân) cũng như sân bay ở Kacha phía bắc thành phố; 2) Căn cứ Hải quân Leningrad bao gồm tất cả các cơ sở hải quân ở khu vực St. Petersburg rộng lớn bao gồm các trường đào tạo, viện điều hành, học viện hải quân và căn cứ Kronshtadt trên đảo Kotlin.

Căn cứ quân sự hải ngoại

Căn cứ quân sự ở nước ngoài là căn cứ quân sự có vị trí địa lý bên ngoài lãnh thổ của quốc gia mà lực lượng vũ trang là nơi cư trú chính của căn cứ.

Những căn cứ như vậy có thể được thành lập theo các hiệp ước giữa cơ quan quản lý ở nước sở tại và một quốc gia khác cần thiết lập căn cứ quân sự ở nước sở tại vì nhiều lý do, thường là chiến lược và hậu cần.

Hơn nữa, các căn cứ quân sự ở nước ngoài thường đóng vai trò là nguồn gốc của văn hóa nhóm trẻ nhỏ trong quân đội do con cái của quân nhân cư trú trong căn cứ sinh ra hoặc lớn lên ở nước sở tại nhưng lớn lên với sự hiểu biết từ xa của cha mẹ về quê hương của quân nhân chiếm đóng.

Căn cứ quân sự của Anh

Vào thế kỷ XVIII và XIX, các Kỹ sư Hoàng gia chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng các căn cứ quân sự ở Quần đảo Anh và Đế quốc Anh. Năm 1792, Kỹ sư trưởng được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự toán Xây dựng Doanh trại cho Quốc hội và đồng thời Phòng Tổng quản doanh trại được thành lập.

Trong khoảng thời gian từ những năm 1840 đến những năm 1860, doanh trại được xây dựng dưới sự giám sát của Kỹ sư Hoàng gia tại Bristol (1847); Preston (1848); Tháp Luân Đôn (1851); Sheerness(1854); Sheffield (1854); Trại Curragh (1855); Devonport (1856); Chelsea (1861).

Cuộc cải cách Cardwell (1872) mở ra một thời kỳ khác của việc xây dựng doanh trại tập trung tại Aldershot, Portsmouth, Plymouth, London, Woking, Woolwich, Dublin, Belfast, Malta, Gibraltar và Mũi Hảo Vọng.

Năm 1959, Dịch vụ Công tác của Quân đoàn được chuyển giao cho Tổ chức Công tác Dân sự của Bộ Chiến tranh (sau đổi tên thành Cơ quan Dịch vụ Tài sản PSA (Property Services Agency)) và đến năm 1965 (Các Đội Chuyên gia Kỹ sư Hoàng gia STRE (Specialist Teams Royal Engineers)) được thành lập để lập kế hoạch và thực hiện các dự án Công trình trên toàn thế giới.

Một số căn cứ hải quân của Anh và Khối thịnh vượng chung được đặt tên, ủy quyền và quản lý theo truyền thống như thể chúng là tàu hải quân. Vì lý do này đôi khi chúng còn được gọi là khinh hạm đá (stone frigates).

Việt Nam

Căn cứ quân sự trong Lực lượng Vũ trang Việt Nam gọi chung là “Doanh trại Quân đội”. Hầu hết các doanh trại quân đội được bao quanh bởi một hàng rào, có quy định lối vào (cổng) khác nhau cho từng đối tượng con người và phương tiện, có chiến sĩ gác (thường là 2 người) và trực ban cổng (thường do sĩ quan đảm nhiệm). Ngay phía sau cổng ra vào thường có một phòng trực của trực ban, phòng tiếp dân… Ngày nay, cổng ra vào doanh trại thường được gắn camera an ninh, kết nối đến các vị trí quản lí khác nhau tùy theo cấp độ.

Tất cả các doanh trại quân đội cấp Giấy ra vào cho các đối tượng sinh hoạt, công tác trong phạm vi doanh trại. Giấy ra vào có thể là các thẻ quẹt công nghệ có gắn chíp. Các đối tượng khác khi đến làm việc, công tác sử dụng Giấy giới thiệu của cấp có thẩm quyền thay cho giấy ra vào./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *