Giai cấp công nhân (working class) là một nhóm nhỏ những người lao động được trả lương theo hợp đồng hoặc theo lương, thành viên chính xác của nhóm này thay đổi tùy theo định nghĩa. Các thành viên của giai cấp công nhân chủ yếu dựa vào thu nhập từ lao động trả lương. Các định nghĩa phổ biến nhất về “giai cấp công nhân” được sử dụng ở Hoa Kỳ giới hạn thành viên của nhóm này đối với những người lao động làm công việc lao động chân tay và lao động chân tay, có thu nhập không đủ cao để xếp họ vào tầng lớp trung lưu (middle class), hoặc cả hai. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa xã hội định nghĩa “giai cấp công nhân” bao gồm tất cả những người lao động thuộc nhóm này; do đó, định nghĩa này có thể bao gồm hầu hết toàn bộ dân số lao động của các nền kinh tế công nghiệp hóa.
Các định nghĩa
Cũng như nhiều thuật ngữ mô tả giai cấp xã hội (social class), giai cấp công nhân được định nghĩa và sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Một định nghĩa được nhiều người theo chủ nghĩa xã hội sử dụng là giai cấp công nhân bao gồm tất cả những người không có gì để bán ngoài sức lao động của họ. Những người này trước đây được gọi là giai cấp vô sản (proletariat). Theo nghĩa đó, giai cấp công nhân ngày nay bao gồm cả công nhân cổ trắng và cổ xanh, công nhân chân tay và lao động chân tay các loại, chỉ loại trừ những cá nhân kiếm sống bằng nghề kinh doanh và lao động của người khác. Thuật ngữ này, chủ yếu được sử dụng để gợi lên hình ảnh những người lao động phải chịu “bất lợi về giai cấp mặc dù họ đã nỗ lực hết mình”, cũng có thể có hàm ý về chủng tộc. Những hàm ý về chủng tộc này ngụ ý nhiều chủ đề khác nhau về đói nghèo ngụ ý liệu một người có xứng đáng được hỗ trợ hay không.
Tuy nhiên, khi được sử dụng trong bối cảnh phi xã hội chủ nghĩa, nó thường ám chỉ một bộ phận xã hội phụ thuộc vào lao động chân tay, đặc biệt là khi được trả công theo giờ (đối với một số loại khoa học, cũng như phân tích báo chí hoặc chính trị). Ví dụ, giai cấp công nhân được định nghĩa một cách lỏng lẻo là những người không có bằng đại học. Các nghề nghiệp của giai cấp công nhân sau đó được phân loại thành bốn nhóm: lao động không có tay nghề, thợ thủ công, công nhân gia công và công nhân nhà máy.
Một giải pháp thay thế phổ biến là định nghĩa giai cấp theo mức thu nhập. Khi cách tiếp cận này được sử dụng, giai cấp công nhân có thể được đối chiếu với cái gọi là giai cấp trung lưu trên cơ sở các điều khoản khác biệt về khả năng tiếp cận các nguồn lực kinh tế, giáo dục, sở thích văn hóa và các hàng hóa và dịch vụ khác. Sự phân chia giữa giai cấp công nhân và giai cấp trung lưu ở đây có thể có nghĩa là ranh giới mà dân số có thu nhập tùy ý, thay vì tài chính cho các nhu cầu cơ bản và thiết yếu (ví dụ, về thời trang so với chỉ dinh dưỡng và nơi ở).
Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng địa vị của giai cấp công nhân nên được định nghĩa một cách chủ quan là sự tự nhận dạng với nhóm giai cấp công nhân. Cách tiếp cận chủ quan này cho phép mọi người, thay vì các nhà nghiên cứu, định nghĩa giai cấp xã hội “chủ quan” và “được nhận thức” của riêng họ.
Lịch sử và sự phát triển
Ở châu Âu thời phong kiến, giai cấp công nhân không tồn tại với số lượng lớn. Thay vào đó, hầu hết mọi người đều là một phần của giai cấp lao động, một nhóm bao gồm các ngành nghề, nghề kinh doanh và nghề nghiệp khác nhau. Một luật sư, thợ thủ công và nông dân đều được coi là một phần của cùng một đơn vị xã hội, một đẳng cấp thứ ba của những người không phải là quý tộc hay viên chức nhà thờ. Các hệ thống phân cấp tương tự tồn tại bên ngoài châu Âu trong các xã hội tiền công nghiệp khác. Vị trí xã hội của các giai cấp lao động này được coi là được quy định bởi luật tự nhiên và tín ngưỡng tôn giáo chung. Vị trí xã hội này đã bị phản đối, đặc biệt là bởi nông dân, ví dụ như trong Chiến tranh nông dân Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, dưới ảnh hưởng của Khai sáng, xã hội châu Âu đang trong tình trạng thay đổi, và sự thay đổi này không thể hòa giải với ý tưởng về một trật tự xã hội bất biến do Chúa tạo ra. Những thành viên giàu có của các xã hội này đã tạo ra các hệ tư tưởng đổ lỗi cho nhiều vấn đề của tầng lớp lao động là do đạo đức và luân lý của họ (tức là tiêu thụ quá nhiều rượu, lười biếng và không có khả năng tiết kiệm tiền). Trong The Making of the English Working Class (Sự hình thành của giai cấp công nhân Anh), EP Thompson lập luận rằng tầng lớp lao động Anh đã có mặt ngay từ khi họ thành lập, và tìm cách mô tả quá trình chuyển đổi của các tầng lớp lao động tiền hiện đại thành một tầng lớp lao động hiện đại, có ý thức chính trị.
Bắt đầu từ khoảng năm 1917, một số quốc gia đã trở thành những quốc gia được cai trị bề ngoài vì lợi ích của giai cấp công nhân. Một số nhà sử học đã lưu ý rằng một thay đổi quan trọng trong các xã hội theo kiểu Xô Viết này là một loại hình vô sản hóa mới, thường được thực hiện bằng cách cưỡng bức di dời nông dân và công nhân nông thôn. Kể từ đó, bốn quốc gia công nghiệp lớn đã chuyển sang quản lý bán thị trường (Trung Quốc, Lào, Việt Nam, Cuba) và một quốc gia đã chuyển hướng vào bên trong vào một chu kỳ ngày càng tăng của đói nghèo và tàn bạo (Bắc Triều Tiên). Các quốc gia khác cùng loại đã sụp đổ (như Liên Xô).
Từ năm 1960, quá trình vô sản hóa và bao vây tài sản chung trên diện rộng đã diễn ra ở thế giới thứ ba, tạo ra các tầng lớp lao động mới. Ngoài ra, các quốc gia như Ấn Độ đã dần trải qua sự thay đổi xã hội, mở rộng quy mô của tầng lớp lao động thành thị.
Định nghĩa của Marx: giai cấp vô sản
Karl Marx định nghĩa giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản là những cá nhân bán sức lao động của mình để lấy tiền công và không sở hữu phương tiện sản xuất. Ông lập luận rằng họ chịu trách nhiệm tạo ra của cải cho xã hội. Ông khẳng định rằng giai cấp công nhân xây dựng cầu, chế tạo đồ nội thất, trồng trọt và chăm sóc trẻ em, nhưng không sở hữu đất đai hoặc nhà máy.
Một bộ phận của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản lưu manh (rag-proletariat), là những người cực kỳ nghèo khổ và thất nghiệp, chẳng hạn như những người làm công nhật và những người vô gia cư. Marx coi họ là những người không có ý thức giai cấp.
Trong Tuyên ngôn Cộng sản, Karl Marx và Friedrich Engels lập luận rằng vận mệnh của giai cấp công nhân là thay thế hệ thống tư bản chủ nghĩa, với chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản (quyền cai trị của nhiều người, trái ngược với “chế độ chuyên chính của giai cấp tư sản”), xóa bỏ các mối quan hệ xã hội làm nền tảng cho hệ thống giai cấp và sau đó phát triển thành một xã hội cộng sản tương lai trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Nhìn chung, theo thuật ngữ của chủ nghĩa Marx, những người lao động làm công ăn lương và những người phụ thuộc vào nhà nước phúc lợi là giai cấp công nhân, còn những người sống bằng vốn tích lũy thì không phải. Sự phân đôi rộng lớn này định nghĩa nên cuộc đấu tranh giai cấp. Các nhóm và cá nhân khác nhau có thể ở một bên hoặc bên kia tại bất kỳ thời điểm nào. Những mâu thuẫn về lợi ích và bản sắc như vậy trong cuộc sống của các cá nhân và trong cộng đồng có thể làm suy yếu hiệu quả khả năng của giai cấp công nhân trong việc hành động đoàn kết để giảm bóc lột, bất bình đẳng và vai trò của quyền sở hữu trong việc xác định cơ hội sống, điều kiện làm việc và quyền lực chính trị của con người.
Giai cấp công nhân phi chính thức
Giai cấp công nhân phi chính thức (informal working class) là một thuật ngữ xã hội học do Mike Davis đặt ra để chỉ một tầng lớp hơn một tỷ người chủ yếu là thanh niên thành thị, những người không có bất kỳ mối liên hệ chính thức nào với nền kinh tế toàn cầu và cố gắng sinh tồn chủ yếu trong các khu ổ chuột. Theo Davis, tầng lớp này không còn tương ứng với các khái niệm lý thuyết xã hội về một giai cấp, từ Marx, Max Weber hay lý thuyết hiện đại hóa. Sau đó, tầng lớp này phát triển trên toàn thế giới từ những năm 1960, đặc biệt là ở Nam bán cầu. Trái ngược với các khái niệm trước đây về một tầng lớp vô sản lưu manh hay các khái niệm về “khu ổ chuột hy vọng” từ những năm 1920 và 1930, các thành viên của tầng lớp này hầu như không có cơ hội nào để đạt được tư cách thành viên của các cấu trúc kinh tế chính thức.
Giáo dục đại học
Diane Reay nhấn mạnh những thách thức mà sinh viên thuộc tầng lớp lao động có thể phải đối mặt trong quá trình chuyển đổi sang và trong giáo dục đại học, và đặc biệt là các trường đại học nghiên cứu chuyên sâu. Một yếu tố có thể là cộng đồng đại học được coi là không gian xã hội chủ yếu là tầng lớp trung lưu, tạo ra cảm giác khác biệt do sự khác biệt về giai cấp trong các chuẩn mực xã hội và kiến thức về việc điều hướng học thuật.
Người lao động
Người lao động (hay người làm công) là một nghề có tay nghề, một người làm các loại lao động chân tay, đặc biệt là trong các ngành xây dựng và nhà máy. Người lao động thuộc tầng lớp lao động làm công ăn lương mà tài sản vật chất quan trọng duy nhất của họ là sức lao động. Các ngành công nghiệp sử dụng lao động bao gồm xây dựng các công trình như đường sá, lát đường, tòa nhà, cầu, đường hầm, đường ống dân dụng và công nghiệp, và đường ray xe lửa. Người lao động làm việc với các công cụ nổ mìn, công cụ cầm tay, công cụ điện, công cụ khí nén và thiết bị hạng nặng nhỏ, và cũng đóng vai trò là trợ lý cho các ngành nghề khác như công nhân vận hành hoặc thợ xây xi măng. Kỹ sư Vitruvius thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã viết rằng một đội ngũ lao động giỏi cũng có giá trị như bất kỳ khía cạnh nào khác của công trình xây dựng. Ngoài việc bổ sung khí nén, các hoạt động của người lao động không thay đổi nhiều. Với sự ra đời của các công nghệ hiện trường, người lao động đã nhanh chóng thích nghi với việc sử dụng công nghệ này như là lực lượng lao động của người lao động./.