QUÂN KHU (Military district)

Quân khu (military districts hay military regions) là các đội hình (formations) quân đội của một quốc gia, thường là cấp quân đội (army) chịu trách nhiệm cho một khu vực lãnh thổ nhất định. Chúng thường chịu trách nhiệm nhiều hơn về các vấn đề hành chính hơn là hoạt động, và ở các quốc gia có lực lượng nghĩa vụ, chúng thường xử lý một phần của chu kỳ nghĩa vụ quân sự.

Hải quân cũng sử dụng một mô hình tương tự, với các tổ chức như United States Naval Districts. Một số lực lượng hải quân ở Nam Mỹ đã sử dụng các quân khu hải quân tại nhiều thời điểm khác nhau.

Cộng hòa Trung Hoa

Có 76 quân khu hoặc khu quân sự phía Bắc, hoặc khu vực chiến tranh, là những đội hình lớn nhất của Quân đội Cách mạng Quốc gia, trực thuộc Ủy ban Quân sự, do Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai và Thế chiến II. Trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai, Quân đội Cách mạng Quốc gia cuối cùng đã tự tổ chức thành 12 Quân khu.

Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Các quân khu (ban đầu là 11, sau đó là 7) của Quân đội Giải phóng Nhân dân được chia thành các quân khu (thường tiếp giáp với các tỉnh) và các tiểu khu quân sự, dưới sự chỉ huy của Quân ủy Trung ương.

Vào tháng 2/2016, 7 quân khu được đổi thành 5 bộ tư lệnh chiến trường:
– Bộ tư lệnh Chiến khu miền Đông.
– Bộ tư lệnh Chiến khu miền Nam.
– Bộ tư lệnh Chiến khu miền Tây.
– Bộ tư lệnh Chiến khu miền Bắc.
– Bộ tư lệnh Chiến khu Trung ương.

Liên Xô

Các quân khu của Liên Xô (1989):
– Quân khu Baltic.
– Quân khu Belorussia.
– Quân khu Carpathian.
– Quân khu Trung Á.
– Quân khu Viễn Đông.
– Quân khu Kiev.
– Quân khu Leningrad.
– Quân khu Moscow.
– Quân khu Bắc Kavkaz.
– Quân khu Odessa.
– Quân khu Siberia.
– Quân khu Transbaikal.
– Quân khu Transcaucasian.
– Quân khu Turkestan.
– Quân khu Ural.
– Quân khu Volga.

Ở Liên Xô, các quân khu tiếp tục thực hiện vai trò tương tự như ở Đế quốc Nga, với sáu quân khu đầu tiên (Yaroslavsky, Moskovsky, Orlovsky, Belomorsky, Uralsky và Privolzhsky) được thành lập vào ngày 31/3/1918 trong Nội chiến Nga.

Con số này tăng lên 17 quân khu của Liên Xô vào đầu tháng 7/1940, ngay trước khi Liên Xô bị Đức xâm lược và tham gia Thế chiến II, và được sử dụng để thành lập mặt trận (fronts) chiến đấu sau khi Đức bắt đầu xâm lược Liên Xô.

Trong chiến tranh, các quân khu được chia thành các vùng địa lý vì lý do hậu cần, bao gồm:
– Các quân khu phía Bắc và Tây Bắc.
– Các quân khu Tây và Trung Liên Xô.
– Các quân khu phía Nam và Tây Nam.
– Các quân khu Siberia và Trung Á.
– Các quân khu Viễn Đông.

Sau chiến tranh, con số này được tăng lên 33 để hỗ trợ giải ngũ lực lượng, nhưng đến tháng 10/1946, con số này đã giảm xuống còn 21.

Đến cuối những năm 1980, ngay trước khi Liên Xô tan rã, có 16 quân khu, nằm trong 3 đến 5 nhóm chiến trường (theater) chiến lược chính.

Liên bang Nga

Một quân khu (tiếng Nga: вое́нный о́круг) ở Liên bang Nga hoạt động dưới sự chỉ huy của sở chỉ huy quân khu, đứng đầu là tư lệnh quân khu, và trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Liên bang Nga. (Trước đây dưới quyền Tổng tư lệnh Lực lượng Lục quân, Tướng Nikolai Kormiltsev, các quân khu báo cáo với Bộ Tổng tham mưu thông qua bộ tham mưu Lực lượng Lục quân Nga). Đây là một hiệp hội lãnh thổ của các đơn vị quân đội, đội hình, trường quân sự và nhiều cơ sở quân sự địa phương khác nhau. Loại phân chia lãnh thổ này về mặt lịch sử ban đầu được Đế quốc Nga áp dụng để quản lý hiệu quả hơn các đơn vị quân đội, hoạt động huấn luyện và các hoạt động tác chiến khác liên quan đến khả năng sẵn sàng chiến đấu.

Từ năm 1992 đến năm 2010, Lực lượng vũ trang duy trì một số lượng ngày càng giảm các quận thuộc Lực lượng vũ trang Liên Xô cũ – Quân khu Leningrad, Quân khu Moscow, Quân khu Volga-Urals, Quân khu Bắc Kavkaz, Quân khu Siberia, Quân khu Viễn Đông.

Trong giai đoạn 2009-2010, các quận này được tổ chức lại thành 4 Quân khu bao gồm các Bộ Tư lệnh Chiến lược chung khu vực. Năm 2014, Hạm đội phương Bắc được tổ chức lại thành Bộ Tư lệnh Chiến lược chung riêng biệt.

Các quân khu của Nga tính đến năm 2024:
– Quân khu Leningrad có trụ sở tại Saint Petersburg.
– Quân khu phía Nam có trụ sở tại Rostov-on-Don.
– Quân khu Trung ương có trụ sở tại Yekaterinburg.
– Quân khu phía Đông có trụ sở tại Khabarovsk.
– Quân khu Moscow có trụ sở tại Moscow.

Việt Nam

Quân đội nhân dân Việt Nam có 8 Quân khu (Trực thuộc Bộ Quốc phòng ):

– Bộ tư lệnh Thủ đô: có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang bảo vệ thủ đô. Trụ sở chính đặt tại Hà Nội.

– Quân khu 1: có nhiệm vụ bảo vệ chống lại quân xâm lược nước ngoài; và tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Bộ tư lệnh đặt tại Thái Nguyên.

– Quân khu 2: có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang bảo vệ vùng Tây Bắc Việt Nam. Bộ tư lệnh đóng tại Việt Trì.

– Quân khu 3: có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang bảo vệ vùng đồng bằng sông Hồng. Bộ tư lệnh đóng tại Hải Phòng.

– Quân khu 4: có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang bảo vệ Bắc Trung Bộ Việt Nam. Bộ tư lệnh đóng tại Vinh.

– Quân khu 5: có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang bảo vệ Nam Trung Bộ, bao gồm cả Tây Nguyên và các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ. Bộ tư lệnh đặt tại Đà Nẵng.

– Quân khu 7: có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang bảo vệ miền Đông Nam Bộ. Trụ sở chính đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh.

– Quân khu 9: có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang bảo vệ Đồng bằng sông Cửu Long. Trụ sở đặt tại Cần Thơ.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *