CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT (Fascism)

Chủ nghĩa phát xít (tiếng Anh – fascism, / ˈfæʃɪzəm / FASH-iz-əm) là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào cực hữu, độc đoán, cực đoan dân tộc, đặc trưng bởi một nhà lãnh đạo độc tài, chế độ chuyên quyền tập trung, chủ nghĩa quân phiệt, đàn áp bằng vũ lực đối lập, niềm tin vào hệ thống phân cấp xã hội tự nhiên, sự phục tùng các lợi ích cá nhân vì lợi ích được cho là của quốc gia hoặc chủng tộc, và sự quản lý chặt chẽ của xã hội và nền kinh tế. Đối lập với chủ nghĩa vô chính phủ, dân chủ, chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa bình đẳng, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa phát xít được xếp vào cánh cực hữu trong quang phổ truyền thống của phe tả-hữu.

Chủ nghĩa phát xít nổi lên vào đầu thế kỷ XX ở châu Âu. Các phong trào phát xít đầu tiên xuất hiện ở Ý trong Thế chiến I trước khi lan sang các nước châu Âu khác, đáng chú ý nhất là Đức. Chủ nghĩa phát xít cũng có những người theo bên ngoài châu Âu. Những người theo chủ nghĩa phát xít coi Thế chiến I là một cuộc cách mạng mang lại những thay đổi lớn về bản chất của chiến tranh, xã hội, nhà nước và công nghệ. Sự ra đời của chiến tranh toàn diện và sự huy động quần chúng của xã hội đã xóa bỏ sự phân biệt giữa thường dân và người tham chiến. Một quyền công dân quân sự đã xuất hiện trong đó tất cả công dân đều tham gia vào quân đội theo một cách nào đó. Cuộc chiến đã dẫn đến sự trỗi dậy của một nhà nước hùng mạnh có khả năng huy động hàng triệu người phục vụ ở tuyến đầu và cung cấp hậu cần để hỗ trợ họ, cũng như có thẩm quyền chưa từng có để can thiệp vào cuộc sống của người dân.

Chủ nghĩa phát xít bác bỏ những khẳng định rằng bạo lực vốn dĩ là tiêu cực hoặc vô nghĩa, thay vào đó coi chủ nghĩa đế quốc, bạo lực chính trị và chiến tranh là phương tiện để trẻ hóa quốc gia. Những người theo chủ nghĩa phát xít thường ủng hộ việc thành lập một nhà nước độc đảng toàn trị và một nền kinh tế chỉ đạo (một nền kinh tế thị trường trong đó nhà nước đóng vai trò chỉ đạo mạnh mẽ thông qua các chính sách can thiệp kinh tế), với mục tiêu chính là đạt được sự tự cung tự cấp (tự cung tự cấp về kinh tế quốc gia). Chủ nghĩa chuyên quyền cực đoan (extreme authoritarianism) và chủ nghĩa dân tộc cực đoan (extreme nationalism) của chủ nghĩa phát xít thường biểu hiện dưới dạng niềm tin vào sự thuần khiết về chủng tộc hoặc một chủng tộc thượng đẳng, thường pha trộn với một số biến thể của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hoặc sự phân biệt đối xử với một “người khác” bị quỷ dữ hóa, chẳng hạn như người Do Thái, người đồng tính, người chuyển giới, dân tộc thiểu số hoặc người nhập cư. Những ý tưởng này đã thúc đẩy các chế độ phát xít thực hiện các vụ thảm sát, triệt sản cưỡng bức, trục xuất và diệt chủng. Trong Thế chiến II, các hành động của phe Trục phát xít, với tham vọng diệt chủng và đế quốc của họ, đã gây ra cái chết của hàng triệu người.

Kể từ khi Thế chiến II kết thúc vào năm 1945, chủ nghĩa phát xít như một hệ tư tưởng đã bị mất uy tín phần lớn, và rất ít đảng phái công khai mô tả mình là phát xít; thuật ngữ này thường được các đối thủ chính trị sử dụng một cách miệt thị. Các mô tả về chủ nghĩa phát xít mới hoặc hậu phát xít đôi khi được sử dụng để mô tả các đảng phái đương đại có hệ tư tưởng tương tự hoặc bắt nguồn từ các phong trào phát xít thế kỷ XX. Một số nhóm đối lập đã sử dụng nhãn hiệu chống phát xít (thường được viết tắt là antifa) để biểu thị lập trường của họ.

Từ nguyên

Thuật ngữ fascismo của Ý bắt nguồn từ fascio, có nghĩa là “bó que”, bắt nguồn từ từ tiếng Latin fasces. Đây là tên gọi dành cho các tổ chức chính trị ở Ý được gọi là fasci, các nhóm tương tự như các phường hội hoặc nghiệp đoàn. Theo lời kể của chính nhà độc tài phát xít Ý Benito Mussolini, Fasces of Revolutionary Action được thành lập tại Ý vào năm 1915. Năm 1919, Mussolini thành lập Fasces of Combat của Ý tại Milan, nơi trở thành Đảng Phát xít Quốc gia hai năm sau đó. Những người theo chủ nghĩa phát xít đã liên kết thuật ngữ này với fasces La Mã cổ đại hoặc fascio littorio, một bó que buộc quanh một chiếc rìu, một biểu tượng La Mã cổ đại về quyền lực của thẩm phán dân sự do các quan tòa của ông ta mang theo. Biểu tượng của fasces gợi ý về sức mạnh thông qua sự thống nhất: một cây gậy đơn lẻ dễ bị bẻ gãy, trong khi bó que khó bị bẻ gãy. Các biểu tượng tương tự đã được phát triển bởi nhiều phong trào phát xít khác nhau: ví dụ, biểu tượng Falange là năm mũi tên được nối lại bằng một cái ách.

Định nghĩa

Các nhà sử học, nhà khoa học chính trị và các học giả khác từ lâu đã tranh luận về bản chất chính xác của chủ nghĩa phát xít. Nhà sử học Ian Kershaw đã từng viết rằng “cố gắng định nghĩa “chủ nghĩa phát xít” cũng giống như cố gắng đóng thạch vào tường”. Mỗi nhóm khác nhau được mô tả là phát xít đều có ít nhất một số yếu tố độc đáo và nhiều định nghĩa về chủ nghĩa phát xít đã bị chỉ trích là quá rộng hoặc quá hẹp. Theo nhiều học giả, chủ nghĩa phát xít – đặc biệt là khi đã nắm quyền – trong lịch sử đã tấn công chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa tự do nghị viện, thu hút sự ủng hộ chủ yếu từ phe cực hữu.

Định nghĩa chuẩn mực thường được các học giả nổi tiếng như Roger Griffin, Randall Schweller, Bo Rothstein, Federico Finchelstein và Stephen D. Shenfield trích dẫn là của nhà sử học Stanley G. Payne. Định nghĩa của ông về chủ nghĩa phát xít tập trung vào ba khái niệm:  

– “Những phủ định của chủ nghĩa phát xít” – chống chủ nghĩa tự do, chống chủ nghĩa cộng sản và chống chủ nghĩa bảo thủ.

– “Mục tiêu phát xít” – việc tạo ra chế độ độc tài dân tộc để điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển đổi các mối quan hệ xã hội trong một nền văn hóa hiện đại, tự quyết, và mở rộng quốc gia thành một đế chế.

– “Phong cách phát xít” – một phong cách chính trị mang tính biểu tượng lãng mạn, huy động quần chúng, quan điểm tích cực về bạo lực và đề cao nam tính, tuổi trẻ và sự lãnh đạo độc đoán có sức lôi cuốn.

Umberto Eco liệt kê 14 “đặc điểm tiêu biểu cho cái mà tôi muốn gọi là Ur-Fascism, hay Eternal Fascism. Những đặc điểm này không thể được sắp xếp thành một hệ thống; nhiều đặc điểm trong số chúng mâu thuẫn với nhau, và cũng tiêu biểu cho các loại chuyên chế hoặc cuồng tín khác. Nhưng chỉ cần một trong số chúng hiện diện là đủ để cho phép chủ nghĩa phát xít đông tụ xung quanh nó”. Nhà sử học John Lukacs lập luận rằng không có thứ gọi là chủ nghĩa phát xít chung chung. Ông tuyên bố rằng chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản về cơ bản là biểu hiện của chủ nghĩa dân túy, và các quốc gia như Đức Quốc xã và Ý Phát xít khác nhau nhiều hơn là giống nhau.

Trong cuốn sách How Fascism Works: The Politics of Us and Them (2018), Jason Stanley đã định nghĩa chủ nghĩa phát xít là: “một giáo phái tôn sùng nhà lãnh đạo hứa hẹn khôi phục đất nước trước sự sỉ nhục do những người cộng sản, chủ nghĩa Marx và các nhóm thiểu số cùng những người nhập cư gây ra, những người được cho là đe dọa đến bản sắc và lịch sử của một quốc gia” và rằng “Nhà lãnh đạo đề xuất rằng chỉ có ông ta mới có thể giải quyết được vấn đề này và tất cả những đối thủ chính trị của ông ta đều là kẻ thù hoặc kẻ phản bội”.

Stanley cho biết các sự kiện toàn cầu gần đây tính đến năm 2020, bao gồm đại dịch COVID-19 và tình trạng bất ổn chủng tộc ở Hoa Kỳ năm 2020-2022, đã chứng minh mối quan ngại của ông về cách mà luận điệu phát xít đang xuất hiện trong chính trị và chính sách trên toàn thế giới.

Roger Griffin mô tả chủ nghĩa phát xít là “một chi của hệ tư tưởng chính trị mà cốt lõi huyền thoại trong các hoán vị khác nhau của nó là một dạng palingenetic của chủ nghĩa dân tộc cực đoan dân túy”. Theo Griffin, nếu không có chủ nghĩa dân tộc cực đoan palingenetic, thì sẽ không có “chủ nghĩa phát xít thực sự”. Griffin mô tả thêm rằng chủ nghĩa phát xít có 3 thành phần cốt lõi: “(i) huyền thoại tái sinh, (ii) chủ nghĩa dân tộc cực đoan dân túy và (iii) huyền thoại về sự suy đồi”. Theo quan điểm của Griffin, chủ nghĩa phát xít là “một hình thức thực sự mang tính cách mạng, xuyên giai cấp của chủ nghĩa dân tộc chống tự do và xét cho cùng là chống bảo thủ” được xây dựng trên một loạt các ảnh hưởng lý thuyết và văn hóa phức tạp. Ông phân biệt một giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh trong đó nó thể hiện ở chính trị “đảng vũ trang” do giới tinh hoa lãnh đạo nhưng theo chủ nghĩa dân túy phản đối chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do, và hứa hẹn chính trị cấp tiến để giải cứu quốc gia khỏi sự suy đồi.

Kershaw lập luận rằng sự khác biệt giữa chủ nghĩa phát xít và các hình thức chủ nghĩa độc tài cánh hữu khác trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh là chủ nghĩa độc tài cánh hữu thường nhằm mục đích “bảo tồn trật tự xã hội hiện có”, trong khi chủ nghĩa phát xít mang tính “cách mạng”, tìm cách thay đổi xã hội và đạt được “sự cam kết hoàn toàn” từ người dân.

Trong Against the Fascist Creep, Alexander Reid Ross viết về quan điểm của Griffin: “Sau Chiến tranh Lạnh và những thay đổi trong các kỹ thuật tổ chức phát xít, một số học giả đã chuyển sang “sự đồng thuận mới” tối giản do Roger Griffin tinh chỉnh: “cốt lõi huyền thoại” của chủ nghĩa phát xít là “một hình thức dân túy của chủ nghĩa cực đoan dân tộc học hồi sinh”. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng dựa trên những huyền thoại cũ, cổ xưa và thậm chí là huyền bí về nguồn gốc chủng tộc, văn hóa, dân tộc và quốc gia để phát triển một kế hoạch cho “con người mới”. “Bản thân Griffin đã khám phá cốt lõi “huyền thoại” hoặc “có thể loại bỏ” này của chủ nghĩa phát xít với khái niệm hậu phát xít của ông để khám phá sự tiếp diễn của chủ nghĩa Quốc xã trong kỷ nguyên hiện đại. Ngoài ra, các nhà sử học khác đã áp dụng cốt lõi tối giản này để khám phá các phong trào nguyên phát xít.

Cas MuddeCristóbal Rovira Kaltwasser lập luận rằng mặc dù chủ nghĩa phát xít “thả thính chủ nghĩa dân túy… trong nỗ lực tạo ra sự ủng hộ của quần chúng”, nhưng tốt hơn hết là nên coi nó là một hệ tư tưởng của giới tinh hoa. Họ đặc biệt trích dẫn sự tôn vinh Lãnh tụ, chủng tộc và nhà nước, thay vì nhân dân. Họ coi chủ nghĩa dân túy là một “hệ tư tưởng có trọng tâm mỏng” với “hình thái hạn chế” mà nhất thiết phải gắn liền với các hệ tư tưởng “có trọng tâm dày” như chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa tự do hoặc chủ nghĩa xã hội. Do đó, chủ nghĩa dân túy có thể được tìm thấy như một khía cạnh của nhiều hệ tư tưởng cụ thể, mà không nhất thiết phải là đặc điểm xác định của các hệ tư tưởng đó. Họ gọi sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa độc đoán và chủ nghĩa cực đoan dân tộc là “một cuộc hôn nhân vì tiện lợi”.

Robert Paxton nói: “chủ nghĩa phát xít là một hình thức hành vi chính trị được đánh dấu bằng sự ám ảnh về sự suy tàn của cộng đồng, sự sỉ nhục hoặc nạn nhân và bằng các giáo phái bù đắp cho sự thống nhất, năng lượng và sự trong sạch, trong đó một đảng quần chúng gồm những chiến binh dân tộc chủ nghĩa tận tụy, làm việc trong sự hợp tác không dễ dàng nhưng hiệu quả với giới tinh hoa truyền thống, từ bỏ các quyền tự do dân chủ và theo đuổi các mục tiêu thanh lọc nội bộ và bành trướng ra bên ngoài bằng bạo lực cứu chuộc và không có sự hạn chế về mặt đạo đức hoặc pháp lý”.

Roger Eatwell định nghĩa chủ nghĩa phát xít là “một hệ tư tưởng phấn đấu để tạo ra sự tái sinh xã hội dựa trên Con đường thứ ba toàn diện – cấp tiến dân tộc”, trong khi Walter Laqueur coi các nguyên lý cốt lõi của chủ nghĩa phát xít là “hiển nhiên: chủ nghĩa dân tộc; chủ nghĩa Darwin xã hội; chủ nghĩa chủng tộc, nhu cầu lãnh đạo, chế độ quý tộc mới và sự phục tùng; và sự phủ nhận các lý tưởng của Khai sáng và Cách mạng Pháp”.

Nhà sử học Emilio Gentile đã định nghĩa chủ nghĩa phát xít là: “một hiện tượng chính trị hiện đại, mang tính cách mạng, phản tự do và phản Marx, được tổ chức trong một đảng dân quân với quan niệm toàn trị về chính trị và Nhà nước, một hệ tư tưởng hoạt động và phản lý thuyết, với nền tảng huyền thoại, nam tính và phản khoái lạc, được thần thánh hóa như một tôn giáo thế tục, khẳng định quyền tối cao tuyệt đối của quốc gia, được hiểu là một cộng đồng hữu cơ đồng nhất về mặt dân tộc, được tổ chức theo thứ bậc trong một nhà nước tập đoàn, với thiên hướng hiếu chiến hướng tới chính trị vĩ đại, quyền lực và chinh phục nhằm tạo ra một trật tự mới và một nền văn minh mới.

Nhà sử học và nhà phê bình văn hóa Ruth Ben-Ghiat đã mô tả chủ nghĩa phát xít là “giai đoạn đầu của chủ nghĩa độc tài, cùng với chủ nghĩa cộng sản ban đầu, khi dân chúng đã trải qua những biến động lớn hoặc họ nhận thấy rằng xã hội đã có những thay đổi rất nhanh chóng, quá nhanh so với sở thích của họ”.

Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một đặc điểm chính của chủ nghĩa phát xít Đức, trong đó Holocaust là ưu tiên hàng đầu. Theo The Historiography of Genocide, “Khi giải quyết Holocaust, các nhà sử học đều nhất trí rằng Đức Quốc xã nhắm vào người Do Thái như một chủng tộc, không phải là một nhóm tôn giáo”. Umberto Eco, Kevin Passmore, John Weiss, Ian Adams và Moyra Grant nhấn mạnh chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một thành phần đặc trưng của chủ nghĩa phát xít Đức. Nhà sử học Robert Soucy tuyên bố rằng “Hitler hình dung ra xã hội Đức lý tưởng là một Volksgemeinschaft, một tổ chức thống nhất về mặt chủng tộc và được tổ chức theo thứ bậc, trong đó lợi ích của các cá nhân sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào lợi ích của quốc gia, hay Volk”. Kershaw lưu ý rằng các yếu tố chung của chủ nghĩa phát xít bao gồm “’thanh trừng’ tất cả những người bị coi là không thuộc về – người nước ngoài, dân tộc thiểu số, “những kẻ không mong muốn” và niềm tin vào sự vượt trội của quốc gia mình, ngay cả khi đó không phải là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc sinh học như trong chủ nghĩa Quốc xã. Các triết lý phát xít khác nhau tùy theo ứng dụng, nhưng vẫn có một điểm chung về mặt lý thuyết: tất cả đều theo truyền thống thuộc về phe cực hữu của bất kỳ phổ chính trị nào, được thúc đẩy bởi bản sắc giai cấp bị ảnh hưởng bởi bất bình đẳng xã hội thông thường.

Bài viết được đề xuất

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *