Tổng quan:
– Tên gọi: Tàu quét mìn Project 1258 Korund (tên NATO – lớp Yevgenya)
– Nhà máy đóng tàu: Vladivostokskiy Sudostroitel’niy Zavod, Vladivostok, Liên Xô cũ (nay thuộc Cộng hòa Liên bang Nga)
– Thời gian đóng: 1967-1980
– Thời gian hoạt động: 1967-nay
– Lượng giãn nước: 88,5 tấn (tiêu chuẩn), 94 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 26,1 m
– Độ rộng: 5,4 m
– Mớn nước: 1,3 m
– Động lực đẩy: 2 x động cơ diesel 3D12, tổng 600 mã lực; 2 x trục
– Tốc độ: 12 hl/g (22 km/h)
– Tầm hoạt động:
+ 300 hl (555,6 km) ở tốc độ 10 hl/g (19 km/h)
+ 425 hl (max)
– Thủy thủ đoàn: 10
– Khí tài:
+ Radar: Spin Trough
+ Sonar: MG-7
– Vũ khí
+ 1 x 25 mm (nòng đôi)
+ 2 x ZPU-2 14,5 mm
+ Tên lửa phòng không di động Strela-3
+ 10 thủy lôi
– Thiết bị quét:
+ Lưới kéo loại MT-3U, VKT-1 (rà phá mìn neo)
+ Lưới kéo không tiếp xúc – SEMT-1 (một nam châm điện nổi 12 tấn có tác dụng phá hủy các mìn từ trường và cảm ứng), AT-2 (lưới kéo âm thanh phà hủy mìn kết hợp và mìn đáy)
+ Thiết bị dò mìn IT-1 (Neva-1)
+ Thiết bị IU-2 để phát hiện mìn đáy vỏ kim loại
+ Thiết bị dò mìn truyền hình 3 kênh IT-3 dựa trên công cụ dò mìn đáy truyền hình đơn kênh Neva-1
+ Dây sạc ShZ-200 để phá hủy các loại mìn đáy.
Tàu quét mìn lớp Korund (Корунд) là loại tàu quét mìn gần bờ, trên sông, luồng… cỡ nhỏ do Liên Xô thiết kế và chế tạo từ năm 1967-1980. Phiên bản ban đầu vỏ thép, sau là composites và gỗ.
Tàu có kích thước và trọng tải vô cùng nhỏ: 26,13 m x 5,90 m x 1,30 m, lượng giãn nước trên dưới 90 tấn. Do có kích thước nhỏ nên khả năng dự trữ hành trình của tàu bị hạn chế (khoảng 3-5 ngày), chỉ có khả năng thực hiện các nhiệm vụ phá thủy lôi bất kể ngòi nổ gì và tuần tra gần bờ. Tàu cũng có khả năng rải thủy lôi phong tỏa đường biển.
Các biến thể:
РТЩ пр. 1258Э (Рейдовые речные тральщики проекта 1258Э), biến thể của РТЩ пр. 1258 (RTSH project 1258) để xuất khẩu cho hải quân nước ngoài, về cấu trúc hơi khác so với phiên bản gốc về vũ khí chống mìn, vô tuyến điện và điều hướng.
РТЩ пр. 1259, шифр «Малахит», một biến thể của РТЩ пр. 1258 với kích thước tổng thể nhỏ hơn, được tạo ra với mục đích vận chuyển tàu quét mìn bằng đường sắt, sử dụng động cơ phản lực nước, từ năm 1973 đến năm 1976.
Vào đầu những năm 80, dự án này được bàn giao cho Bulgaria, nơi bắt đầu đóng tàu РТЩ theo dự án 12592, “Malachite-2” cho Hải quân Liên Xô và các nước thuộc khối Warszawa. Dự án này có các trang thiết bị và vũ khí hiện đại hơn, sự thay thế các vòi phun nước bằng các chân vịt cố định và cột tàu.
Tổng cộng 92 chiếc thuộc dự án 1258 và các cải tiến của nó đã được đóng: 52 chiếc thuộc dự án 1258, 40 chiếc thuộc dự án 1258E (xuất khẩu).
Có trong biên chế các nước: Liên Xô, Angola (2 chiếc) Azerbaijan (5), Cuba (11), Ấn Độ (7), Nga (45 chiếc hoạt động đến năm 1995), Iraq (3), Mozambique (2), Nicaragua (4), Syria (5), Ukraina (1)
Việt Nam: hiện còn 1 chiếc (816), đang phục vụ trong biên chế. 2 chiếc đã loại biên (871, 872).
Các loại tàu tương đương:
– Tàu quét mìn ven biển lớp Ham, dùng để quét mìn ở vùng nước nông của sông và cửa sông, tàu quét mìn đầu tiên được làm bằng vật liệu composite, sau đó hoàn toàn bằng gỗ, rất thành công đến mức từ năm 1954-1959, 93 tàu đã được đóng, rất phổ biến trong Hải quân Anh.
– Tàu quét mìn Raid, là một dự án sửa đổi một chút của tàu quét mìn ven biển “Ham”. Từ năm 1956 đến năm 1957, 20 chiếc được chế tạo cho Hải quân Ý. Hiện được chuyển đổi thành tàu huấn luyện.
– Loại tàu quét mìn ven biển “Van Strelen“, loại tương tự do Hà Lan tự phát triển của tàu quét mìn ven biển loại “Ham”. Từ năm 1960 đến năm 1962, 16 chiếc được chế tạo cho Hải quân Hà Lan.
– Tàu quét mìn ven biển loại Cape, cho Hải quân Hoa Kỳ, 2 chiếc được đóng vào năm 1958./.