Tóm tắt:
– Tên khai sinh: Carl Philipp Gottfried von Clausewitz
– Sinh: 1/7/1780, tại Burg bei Magdeburg, Vương quốc Phổ, Đế chế La Mã Thần thánh
– Mất: 16/11/1831 (51 tuổi), tại Breslau, Tỉnh Silesia, Vương quốc Phổ (ngày nay là Wrocław, Tỉnh Hạ Silesian, Ba Lan)
– Phục vụ trong:
+ Phổ
+ Đế quốc Nga (1812-1813)
– Quân binh chủng: Quân đội Phổ
– Năm phục vụ: 1792-1831
– Cấp bậc: Thiếu tướng
– Đơn vị: Quân đoàn Nga-Đức (Quân đoàn III)
– Trường đã qua: Học viện chiến tranh Phổ
– Tham chiến: Chiến tranh Cách mạng Pháp; Cuộc vây hãm Mainz; Chiến tranh Napoleon; Trận chiến Jena-Auerstedt; Trận chiến Borodino; Trận chiến Ligny; Trận chiến Wavre
Carl Philipp Gottfried (hoặc Gottlieb) von Clausewitz (phát âm tiếng Đức: [ˌkaʁl fɔn ˈklaʊ̯zəvɪt͡s]; 1/7/1780 – 16/11/1831) là một tướng lĩnh và nhà lý luận quân sự người Phổ, người nhấn mạnh đến “đạo đức” (theo thuật ngữ hiện đại có nghĩa là tâm lý) và các khía cạnh chính trị của việc tiến hành chiến tranh. Tác phẩm đáng chú ý nhất của ông, Vom Kriege (tiếng Anh “On War”, nghĩa là “Bàn về chiến tranh”), mặc dù chưa hoàn thành khi ông qua đời, nhưng được coi là một luận thuyết có ảnh hưởng lớn về chiến lược quân sự và khoa học.
Clausewitz nhấn mạnh sự tương tác đa dạng của nhiều yếu tố khác nhau trong chiến tranh, lưu ý cách những diễn biến bất ngờ diễn ra dưới “sương mù chiến tranh” (tức là, trước thông tin không đầy đủ, đáng ngờ và thường sai lệch và nỗi sợ hãi, nghi ngờ và phấn khích lớn) đòi hỏi các chỉ huy cảnh giác phải đưa ra quyết định nhanh chóng. Ông coi lịch sử là sự kiểm tra quan trọng đối với những khái niệm trừu tượng uyên bác không phù hợp với kinh nghiệm. Trái ngược với tác phẩm đầu tay của Antoine-Henri Jomini, ông lập luận rằng chiến tranh không thể được định lượng hoặc thu gọn thành bản đồ, hình học và đồ thị. Clausewitz có nhiều câu cách ngôn, trong đó nổi tiếng nhất là “Chiến tranh là sự tiếp tục của chính sách bằng các phương tiện khác” (War is the continuation of policy with other means).
Tên
Tên thánh của Clausewitz đôi khi được ghi trong các nguồn không phải tiếng Đức là “Karl”, “Carl Philipp Gottlieb” hoặc “Carl Maria”. Ông viết tên riêng của mình bằng chữ “C” để đồng nhất với truyền thống phương Tây cổ điển; các nhà văn sử dụng “Karl” thường muốn nhấn mạnh bản sắc Đức (thay vì châu Âu) của họ. “Carl Philipp Gottfried” xuất hiện trên bia mộ của Clausewitz. Tuy nhiên, các nguồn như sử gia quân sự Peter Paret và Encyclopædia Britannica vẫn tiếp tục sử dụng Gottlieb thay vì Gottfried.
Cuộc sống và sự nghiệp quân sự
Clausewitz sinh ngày 1/7/1780 tại Burg bei Magdeburg thuộc Công quốc Magdeburg của Phổ, là con trai thứ tư và cũng là con trai út của một gia đình tuyên bố có địa vị quý tộc mà Carl đã chấp nhận. Gia đình Clausewitz tuyên bố có nguồn gốc từ Nam tước Clausewitz ở Thượng Silesia, mặc dù các học giả đặt câu hỏi về mối liên hệ này. Ông nội của ông, con trai của một mục sư Luther, từng là giáo sư thần học. Cha của Clausewitz, từng là trung úy trong quân đội của Frederick Đại đế, Vua Phổ, đã giữ một chức vụ nhỏ trong cơ quan thuế vụ nội địa Phổ. Clausewitz gia nhập quân đội Phổ khi mới 12 tuổi với tư cách như là một binh nhất (lance corporal), cuối cùng đạt đến cấp bậc thiếu tướng (major general).
Clausewitz đã phục vụ trong các chiến dịch sông Rhine (1793-1794) bao gồm cả cuộc vây hãm Mainz, khi Quân đội Phổ xâm lược Pháp trong Cách mạng Pháp, và đã chiến đấu trong các cuộc Chiến tranh Napoleon từ năm 1806 đến năm 1815. Ông đã vào Kriegsakademie (còn được gọi là “Trường Chiến tranh Đức”, “Học viện Quân sự tại Berlin” và “Học viện Quân sự Phổ”, sau này là “Cao đẳng Chiến tranh”) tại Berlin vào năm 1801 (ở tuổi 21), có lẽ đã nghiên cứu các tác phẩm của các nhà triết học Immanuel Kant và/hoặc Johann Gottlieb Fichte và Friedrich Schleiermacher và giành được sự kính trọng của Tướng Gerhard von Scharnhorst, vị tổng tham mưu trưởng đầu tiên trong tương lai của Quân đội Phổ mới được cải tổ (được bổ nhiệm năm 1809). Clausewitz, Hermann von Boyen (1771-1848) và Karl von Grolman (1777-1843) nằm trong số những đồng minh chính của Scharnhorst trong nỗ lực cải cách quân đội Phổ của ông từ năm 1807 đến năm 1814.
Clausewitz đã phục vụ trong Chiến dịch Jena với tư cách là phụ tá của Hoàng tử August. Trong Trận chiến Jena-Auerstedt vào ngày 14/10/1806 – khi Napoleon xâm lược Phổ và đánh bại quân đội Phổ-Saxon do Karl Wilhelm Ferdinand, Công tước xứ Brunswick chỉ huy – ông đã bị bắt, một trong 25.000 tù nhân bị bắt vào ngày hôm đó khi quân đội Phổ tan rã. Ông mới 26 tuổi. Clausewitz bị giam giữ cùng với hoàng tử của mình ở Pháp từ năm 1807 đến năm 1808. Trở về Phổ, ông đã hỗ trợ cải cách quân đội và nhà nước Phổ. Johann Gottlieb Fichte đã viết Về Machiavelli, với tư cách là một tác giả, và những đoạn trích từ các tác phẩm của ông vào tháng 6/1807 (“Über Machiavell, als Schriftsteller, und Stellen aus seinen Schriften”). Carl Clausewitz đã viết một bức thư thú vị và ẩn danh gửi Fichte (1809) về cuốn sách của ông về Machiavelli. Bức thư được xuất bản trong Verstreute kleine Schriften 157-166 của Fichte. Để biết bản dịch tiếng Anh của bức thư, hãy xem Carl von Clausewitz Historical and Political Writings Biên tập bởi: Peter Paret và D. Moran (1992).
Vào ngày 10/12/1810, ông kết hôn với Nữ bá tước Marie von Brühl, người mà ông gặp lần đầu vào năm 1803. Bà là thành viên của gia đình Brühl quý tộc người Đức có nguồn gốc từ Thuringia. Cặp đôi này chuyển đến những tầng lớp cao nhất, giao du với giới tinh hoa chính trị, văn học và trí thức của Berlin. Marie được giáo dục tốt và có nhiều mối quan hệ chính trị – bà đóng vai trò quan trọng trong sự tiến triển sự nghiệp và sự phát triển trí tuệ của chồng mình. Bà cũng biên tập, xuất bản và giới thiệu các tác phẩm đã sưu tầm của ông.
Phản đối liên minh bắt buộc của Phổ với Napoleon, Clausewitz rời quân đội Phổ và phục vụ trong Quân đội Đế quốc Nga từ năm 1812 đến năm 1813 trong chiến dịch Nga, tham gia Trận Borodino (1812). Giống như nhiều sĩ quan Phổ phục vụ ở Nga, ông gia nhập Quân đoàn Nga-Đức vào năm 1813. Trong quá trình phục vụ Đế quốc Nga, Clausewitz đã giúp đàm phán Công ước Tauroggen (1812), mở đường cho liên minh giữa Phổ, Nga và Vương quốc Anh, cuối cùng đã đánh bại Napoleon và các đồng minh của ông.
Năm 1815, Quân đoàn Nga-Đức đã được sáp nhập vào Quân đội Phổ và Clausewitz tái gia nhập quân đội Phổ với cấp bậc đại tá. Ông sớm được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng Quân đoàn III của Johann von Thielmann. Với tư cách đó, ông đã phục vụ trong Trận Ligny và Trận Wavre trong chiến dịch Waterloo năm 1815. Một đội quân do đích thân Napoleon chỉ huy đã đánh bại quân Phổ tại Ligny (phía nam Mont-Saint-Jean và làng Waterloo) vào ngày 16/6/1815, nhưng họ đã rút lui trong trật tự. Thất bại của Napoleon trong việc tiêu diệt lực lượng Phổ đã dẫn đến thất bại của ông vài ngày sau đó tại Trận Waterloo (ngày 18/6/1815), khi lực lượng Phổ đến bên sườn phải của ông vào cuối buổi chiều để hỗ trợ lực lượng Anh-Hà Lan-Bỉ đang tấn công mặt trận của ông. Napoleon đã thuyết phục quân lính của mình rằng quân phục màu xám trên chiến trường là quân phục của lính ném lựu đạn của Thống chế Grouchy. Đơn vị của Clausewitz đã chiến đấu với quân số áp đảo tại Wavre (18-19/6/1815), ngăn chặn lực lượng tiếp viện lớn đến được Napoleon tại Waterloo. Sau chiến tranh, Clausewitz giữ chức giám đốc Kriegsakademie, nơi ông phục vụ cho đến năm 1830. Vào năm đó, ông trở lại phục vụ trong quân đội. Ngay sau đó, một số cuộc cách mạng bùng nổ trên khắp châu Âu và một cuộc khủng hoảng ở Ba Lan dường như báo trước một cuộc chiến tranh lớn khác ở châu Âu. Clausewitz được bổ nhiệm làm tổng tham mưu trưởng của đội quân duy nhất mà Phổ có thể huy động trong trường hợp khẩn cấp này, được gửi đến biên giới Ba Lan. Chỉ huy của đội quân này, Gneisenau, đã chết vì bệnh tả (tháng 8/1831), và Clausewitz đã chỉ huy các nỗ lực của quân đội Phổ nhằm xây dựng một vành đai vệ sinh để ngăn chặn đợt bùng phát bệnh tả lớn (lần đầu tiên bệnh tả xuất hiện ở trung tâm châu Âu hiện đại, gây ra sự hoảng loạn trên toàn lục địa). Bản thân Clausewitz cũng qua đời vì căn bệnh tương tự ngay sau đó, vào ngày 16/11/1831.
Vợ góa của ông đã biên tập, xuất bản và viết lời giới thiệu cho tác phẩm lớn của ông về triết học chiến tranh vào năm 1832. (Ông đã bắt đầu viết văn bản này vào năm 1816 nhưng vẫn chưa hoàn thành). Bà đã viết lời tựa cho tác phẩm On War và đã xuất bản hầu hết các tác phẩm sưu tầm của ông vào năm 1835. Bà qua đời vào tháng 1/1836.
…