TÀU ĐỔ BỘ LPH LỚP Iwo Jima

Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu: Xưởng đóng tàu hải quân Puget Sound; Xưởng đóng tàu hải quân Philadelphia; Ingalls Shipbuilding
– Nhà khai thác: Hải quân Hoa Kỳ
– Lớp trước: Essex (một số tàu được hoán cải)
– Lớp sau: Tarawa
– Trong biên chế: 1961-2002
– Đã hoàn thành: 7
– Đã loại biên (nghỉ hưu): 7
– Kiểu loại: tàu đổ bộ tấn công (LPH)
– Lượng giãn nước: 11.000-18.474 tấn
– Chiều dài: 180 m
– Độ rộng: 26 m
– Chiều rộng sàn đáp: 32 m
– Mớn nước: 8,2 m
– Lực đẩy:
+ Nồi hơi 2 × 600 psi (4,1 MPa)
+ Tuabin hơi một bánh răng, một trục, 22.000 mã lực (16 MW)
– Tốc độ: 22 hl/g (41 km/h)
– Quân đổ bộ: 2.157
– Thủy thủ đoàn: 667
– Vũ khí:
Ban đầu:
+ 2 × 2 súng DP cỡ nòng 76 mm/50,
+ 8 x bệ phóng Sea Sparrow BPDMS.
Sau:
+ 2 × Phalanx CIWS
– Phi cơ: 25 trực thăng hoặc AV-8 Harrier.

Tàu đổ bộ tấn công lớp Iwo Jima của Hải quân Hoa Kỳ là tàu đổ bộ tấn công đầu tiên được thiết kế và chế tạo như tàu sân bay trực thăng chuyên dụng, có khả năng vận hành tới 20 trực thăng để chở 1.800 lính thủy đánh bộ vào bờ. Chúng được đặt tên cho các trận chiến có sự tham gia của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, bắt đầu với Trận Iwo Jima. Chiếc đầu tiên của lớp này được đưa vào hoạt động vào năm 1961 và chiếc cuối cùng đã ngừng hoạt động vào năm 2002. Phân loại thân tàu của “LPH” (Landing Platform Helicopter).

Các tàu thuộc lớp này đã tham gia một số cuộc xung đột và các hoạt động gìn giữ hòa bình và cứu trợ nhân đạo:
– Hỗ trợ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, Đảo san hô Johnston năm 1962
– Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962
Chiến tranh Việt Nam 1963-1973
– Nội chiến Dominica 1965
– Phục hồi tàu vũ trụ Gemini và Apollo 1966-1975
– Khủng hoảng con tin Iran 1980
– Lực lượng đa quốc gia ở Lebanon, 1982-1983
– Chiến dịch Urgent Fury, Grenada, 1983
– Chiến dịch Earnest Will, Vịnh Ba Tư 1987-1988
– Chiến dịch Sharp Edge, Liberia, 1990
– Chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991
– Chiến dịch Lối ra phía Đông, Somalia, 1991
– Chiến dịch Khôi phục Hy vọng, Somalia, 1993
– Chiến dịch Tiếp tục Hy vọng, Somalia, 1994
– Chiến dịch Chuyến bay từ chối, Bosnia, 1994
– Chiến dịch Duy trì nền dân chủ, Haiti, 1994
– Chiến dịch Cảnh giác chiến binh, Kuwait, 1994
– Phản hồi được đảm bảo trong hoạt động, Liberia, 1996

Một tàu lớp này, USS Guam (LPH-9), đã được sử dụng trong cuộc thử nghiệm trên Tàu Kiểm soát Biển 1970-1974 để kiểm tra khái niệm về một tàu sân bay nhỏ hơn sử dụng máy bay V/STOL (cắt cánh thẳng đứng và trên đường băng ngắn).

Một con tàu khác, USS Inchon (LPH-12), đã được chuyển đổi thành một tàu quét mìn, nơi chứa các máy bay trực thăng quét mìn.

Thiết kế thân tàu của lớp Iwo Jima cũng trở thành cơ sở của lớp tàu chỉ huy đổ bộ lớn hơn một chút của lớp Blue Ridge.

Tàu trong lớp:
Iwo Jima LPH-2, biên chế 26/8/1961, bị hỏng tại Brownsville, 1996
Okinawa LPH-3, biên chế 14/4/1962, đánh chìm (làm mục tiêu), ngày 6/6/2002
Guadalcanal LPH-7, biên chế 20/7/1963, đánh chìm (làm mục tiêu), ngày 19/5/2005
Guam LPH-9, biên chế 16/1/1965, đánh chìm (làm mục tiêu), ngày 16/10/2001
Tripoli LPH-10, biên chế 6/8/1966, phá hủy tại Brownsville, 2018
New Orleans LPH-11, biên chế 16/11/1968, đánh chìm (làm mục tiêu), ngày 10/7/2010
Inchon LPH-12, biên chế 20/6/1970, đánh chìm (làm mục tiêu) 5/12/2004

5 tàu ​​không thuộc lớp Iwo Jima được chuyển đổi từ các tàu sân bay hộ tống khác nhau, đã hoạt động, được cấp mã thân tàu LPH và được đánh số cùng lớp:
Block Island LPH-1, lớp Commencement Bay
Boxer LPH-4, lớp Essex
Princeton LPH-5, lớp Essex
Thetis Bay LPH-6, lớp Casablanca
Valley Forge LPH-8, lớp Essex

Một trong những con tàu lớp Iwo Jima đóng vai trò là địa điểm thực địa trong nghiên cứu khoa học nhận thức kinh điển của Edwin Hutchins, Cognition in the Wild. Mặc dù Hutchins không đề cập đến lớp tàu theo tên, trên trang 7, ông mô tả nó là một tàu sân bay trực thăng đổ bộ dài 184 m./.

Bài viết được đề xuất

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *