HẢI QUÂN ĐỨC (German Navy)

Tổng quan:
– Thành lập: 2/1/1956
– Quy mô: 16.500 nhân viên (tháng 3/2021), 64 tàu, 56 máy bay
– Trụ sở Hải quân Đức: Rostock (Bộ Tư lệnh Hải quân)
– Phương châm: “Wir. Dienen. Deutschland) nghĩa là “Chúng tôi. Phục vụ. Nước Đức”
– Ngày kỷ niệm: 14/6
– Tham chiến: Chiến dịch Sharp Guard (1993-96); Chiến dịch Tự do Bền vững; Lực lượng Đặc nhiệm Kết hợp 150 (2002-); Chiến dịch Active Endeavour; UNIFIL II; Chiến dịch ATALANTA
– Trang mạng: www.marine.de
– Chỉ huy:
+ Thanh tra Hải quân: Phó đô đốc Jan Christian Kaack
+ Phó Thanh tra Hải quân: Phó đô đốc Rainer Brinkmann
+ Chánh văn phòng: Chuẩn đô đốc Frank Martin Lenski
– Chỉ huy đáng chú ý: Friedrich Ruge; Gunter Luther.

Hải quân Đức (tiếng Đức: Deutsche Marine, phát âm [ˈdɔʏtʃə maˈʁiːnə]) là hải quân của Đức và là một phần của Bundeswehr (Quốc phòng Liên bang), Lực lượng Vũ trang Đức thống nhất. Hải quân Đức ban đầu được gọi là Bundesmarine (Hải quân Liên bang) từ năm 1956 đến năm 1995, khi Deutsche Marine (Hải quân Đức) trở thành tên chính thức liên quan đến sự hợp nhất năm 1990 của Volksmarine Đông Đức (Hải quân Nhân dân). Nó được tích hợp sâu vào liên minh NATO. Nhiệm vụ chính của nó là bảo vệ lãnh hải và cơ sở hạ tầng hàng hải của Đức cũng như các tuyến thông tin liên lạc trên biển. Ngoài ra, Hải quân Đức còn tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai. Nó cũng tham gia vào các hoạt động chống vi phạm bản quyền.

Lịch sử

Hải quân Đức bắt nguồn từ Reichsflotte (Hạm đội Đế quốc) của kỷ nguyên cách mạng 1848-1852. Reichsflotte là lực lượng hải quân Đức đầu tiên ra khơi dưới lá cờ đen-đỏ-vàng. Được thành lập vào ngày 14/6/1848 theo lệnh của Quốc hội Frankfurt được bầu cử dân chủ, sự tồn tại ngắn ngủi của Reichsflotte kết thúc với sự thất bại của cuộc cách mạng và nó bị giải tán vào ngày 2/4/1852; do đó, hải quân hiện đại kỷ niệm sinh nhật của mình vào ngày 14/6.

Trong khoảng thời gian từ tháng 5/1945 đến năm 1956, Cơ quan Quét mìn Đức và các tổ chức kế thừa của nó, bao gồm các thành viên cũ của Kriegsmarine (Hải quân Chiến tranh) của Đức Quốc xã, đã trở thành một giai đoạn chuyển tiếp của hải quân, cho phép Thủy quân lục chiến tương lai thu hút những nhân viên có kinh nghiệm gần đây khi hình thành. Ngoài ra, từ năm 1949 đến năm 1952, Hải quân Hoa Kỳ đã duy trì Đội Lịch sử Hải quân ở Bremerhaven. Nhóm các cựu sĩ quan Kriegsmarine đóng vai trò cố vấn lịch sử và chiến thuật cho người Mỹ, có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập một thành phần Đức trong bộ tham mưu hải quân cấp cao của NATO. Năm 1956, với việc Tây Đức gia nhập NATO, Bundesmarine (Hải quân Liên bang), như hải quân được biết đến một cách thông tục, được chính thức thành lập. Cùng năm đó, Volkspolizei See của Đông Đức (Cảnh sát biển Nhân dân) trở thành Volksmarine (Hải quân Nhân dân). Trong Chiến tranh Lạnh, tất cả các tàu chiến đấu của Hải quân Đức đều được giao cho Bộ chỉ huy hải quân Lực lượng Đồng minh Baltic của NATO (NAVBALTAP).

Với sự gia nhập của Đông Đức vào Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 1990, Volksmarine cùng với toàn bộ Quân đội Nhân dân Quốc gia đã trở thành một phần của Bundeswehr. Từ năm 1995, tên Hải quân Đức được sử dụng trong bối cảnh quốc tế, trong khi tên chính thức từ năm 1956 vẫn là Thủy quân lục chiến mà không có bất kỳ bổ sung nào. Tính đến tháng 4/2020, nhân lực của hải quân là 16.704 nam và nữ.

Một số lực lượng hải quân đã hoạt động trong các thời kỳ khác nhau:
– Hải quân Phổ, 1701-1867
– Hạm đội của Vương quốc (Reichsflotte), 1848-1852
– Hải quân Liên bang Bắc Đức, 1867-1871
– Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine), 1871-1919
– Reichsmarine, 1919-1935
– Kriegsmarine, 1935-1945
– Cơ quan quét mìn Đức, 1945-1948
– Hải quân Đông Đức GDR (Volksmarine), 1956-1990
– Thủy quân lục chiến, 1956-nay (Bundesmarine).

Hoạt động hiện tại

Các tàu chiến của Đức tham gia vĩnh viễn vào cả 4 Nhóm Hàng hải của NATO. Hải quân Đức cũng tham gia vào các hoạt động chống khủng bố quốc tế như Chiến dịch Tự do bền vữngChiến dịch Nỗ lực tích cực của NATO.

Hiện tại, hoạt động lớn nhất mà Hải quân Đức đang tham gia là UNIFIL ngoài khơi bờ biển Liban. Sự đóng góp của Đức cho chiến dịch này là hai khinh hạm, bốn tàu tấn công nhanh và hai tàu phụ trợ. Thành phần hải quân của UNIFIL đã được đặt dưới sự chỉ huy của Đức.

Hải quân đang vận hành một số cơ sở phát triển và thử nghiệm như một phần của mạng lưới liên ngành và quốc tế. Trong số này có Trung tâm Xuất sắc cho các Hoạt động trong Vùng nước Hạn chế và Nông (COE CSW), một trung tâm trực thuộc của Chuyển đổi Chỉ huy Đồng minh. COE CSW được thành lập vào tháng 4/2007 và chính thức được NATO công nhận vào ngày 26/5/2009. Nó được đặt cùng với các nhân viên của Đội tàu Đức 1 ở Kiel có Chỉ huy là Giám đốc, COE CSW.

Tàu mặt nước và tàu ngầm

Tổng cộng có khoảng 65 tàu được biên chế trong Hải quân Đức, bao gồm; 11 khinh hạm, 5 tàu hộ tống, 2 tàu quét mìn, 10 tàu săn mìn, 6 tàu ngầm, 11 tàu tiếp tế và 20 tàu phụ trợ khác. Lượng giãn nước của hải quân là 220.000 tấn.

Tàu của Hải quân Đức bao gồm:
– 4 khinh hạm lớp Baden-Württemberg F125 (tất cả được giao vào tháng 1/2022)
– 3 khinh hạm lớp Sachsen F124
– 4 khinh hạm lớp Brandenburg F123
– 5 tàu hộ tống lớp K130 Braunschweig (5 chiếc bổ sung đang được sản xuất, dự kiến ​​đưa vào hoạt động từ năm 2025)
– 6 tàu ngầm Type 212

Ngoài ra, Hải quân Đức và Hải quân Hoàng gia Đan Mạch đang hợp tác trong “Dự án Ark”. Thỏa thuận này khiến Dự án Ark chịu trách nhiệm vận chuyển đường biển chiến lược của các lực lượng vũ trang Đức, nơi cho thuê toàn thời gian 3 tàu chở hàng và chở quân sẵn sàng triển khai. Ngoài ra, những con tàu này cũng được giữ sẵn để sử dụng cho các quốc gia NATO châu Âu khác. 3 tàu có lượng giãn nước kết hợp là 60.000 tấn. Bao gồm cả những con tàu này, tổng lượng giãn nước của các con tàu dành cho Deutsche Marine là 280.000 tấn.

Việc mua sắm các tàu hỗ trợ chung (2 chiếc JSS800 cho một nhóm đổ bộ gồm 800 binh sĩ, hoặc 3 chiếc JSS400 nhỏ hơn), đã được lên kế hoạch trong giai đoạn 1995-2010 nhưng chương trình này dường như đã bị bỏ dở, không được đề cập trong hai đánh giá quốc phòng gần đây. Những con tàu lớn hơn sẽ được giao nhiệm vụ vận chuyển binh lính chiến lược và các chiến dịch đổ bộ, và có lượng giãn nước 27.000-30.000 tấn cho 800 binh sĩ.

Phi cơ

Lực lượng không quân hải quân của Hải quân Đức được gọi là Marinefliegerkommando. Marinefliegerkommando vận hành 56 máy bay, vào tháng 5/2021, có thông báo rằng Hải quân Đức dự định thay thế máy bay P-3C bằng 5 máy bay Boeing P-8 Poseidon MPA thông qua thỏa thuận FMS từ năm 2025 trở đi.

– Lockheed P-3C Orion (4 chiếc), sẽ được thay thế vào năm 2025 bằng 5 chiếc Boeing P-8 Poseidon.
– Boeing P-8 Poseidon Hoa Kỳ (đặt hàng 5), đưa vào sử dụng năm 2025.
– Dornier 228 (2 chiếc).
– NH90 Sea Lion (13/18 chiếc).
– NH90 Sea Tiger (đặt hàng 31 chiếc).
– Westland Lynx Mk.88 (21 chiếc), sẽ được thay thế bởi NH90 Sea Tiger.
– Westland Sea King Mk.41 (14 chiếc), sẽ được thay thế bởi NH90 Sea Lion.
– Sea Falcon (2/10 chiếc).
– Puma AE II (6 chiếc), 3 hệ thống với 6 UAV.
– DJI Phantom 4 (5 chiếc).

Thành phần tổ chức

Hải quân Đức được chỉ huy bởi Thanh tra Hải quân (Inspekteur der Marine) được hỗ trợ bởi Bộ Tư lệnh Hải quân (Marinekommando) ở Rostock.

– Bộ Tư lệnh Hải quân (Marinekommando), Rostock.
– Hạm đội 1 (Kiel).
+ Hải đội tàu hộ tống số 1, Warnemünde.
+ Hải đội tàu ngầm số 1, Eckernförde.
+ Trung tâm Huấn luyện Tàu ngầm, Eckernförde.
+ Hải đội quét mìn số 3, Kiel.
+ Tiểu đoàn Hải quân, Eckernfoerde.
– Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt Thủy quân lục chiến, Eckernförde.
– Bộ Tư lệnh Căn cứ Hải quân Kiel.
– Bộ Tư lệnh Căn cứ Hải quân Eckernfoerde.
– Bộ Tư lệnh Căn cứ Hải quân Warnemunde.
– Đội tác chiến 2, Wilhelmshaven.
– Hạm đội 2
+ Hải đội khinh hạm số 2, Wilhelmshaven.
+ Hải đội khinh hạm số 4, Wilhelmshaven.
+ Hải đội phụ trợ, Wilhelmshaven.
– Bộ Tư lệnh Căn cứ Hải quân Wilhelmshaven.
– Bộ Tư lệnh Không quân Hải quân, Nordholz.
+ Không đoàn số 3, Nordholz.
+ Không đoàn số 5, Nordholz.
– Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Hải quân.
– Viện Y tế Hải quân, Kiel.
– Học viện Hải quân Mürwik, Flensburg.
– Trường Sĩ quan Hải quân, Plön.
– Trường Kỹ thuật Hải quân, Parow, gần Stralsund.
– Trường Tác chiến Hải quân, Bremerhaven.
– Trung tâm Huấn luyện Kiểm soát Thiệt hại Hải quân, Neustadt ở Holstein.

Cấp bậc sĩ quan
– OF-10: Admiral (~Đô đốc).
– OF-9: Vize­admiral (~Phó Đô đốc).
– OF-8: Konter­admiral (~Chuẩn Đô đốc).
– OF-7: Flottillen­admiral (~Đô đốc hạm đội).
– OF-6: Kapitän zur See (~Đại tá).
– OF-5: Fregatten­kapitän (~Trung tá).
– OF-4: Korvetten­kapitän (~Thiếu tá).
– OF-3: Stabskapitän­leutnant (~Đại úy).
– OF-2: Kapitän­leutnant (~Trung úy).
– OF-1: Oberleutnant (~Thiếu úy).
– OF(D): Seekadett (~Học viên sĩ quan).

Hạ sĩ quan và thủy thủ nhập ngũ
– OR-9: Oberstabs­bootsmann (~Chuẩn úy cấp 1).
– OR-8: Stabs­bootsmann (~Chuẩn úy cấp 2, Thượng sĩ hạng nhất).
– OR-7: Haupt­bootsmann (~Chuẩn úy cấp 3, Thượng sĩ hạng 2); Oberfähnrich zur See (~Thủy thủ trưởng).
– OR-6: Ober­bootsmann; Bootsmann (~Trung sĩ hạng 1); Fähnrich zur See (~Trung sĩ kỹ thuật).
– OR-5: Obermaat; Maat (~Trung sĩ hạng 2); Seekadett (~Học viên sĩ quan).
– OR-4: Stabskorporal; Korporal; Oberstabs­gefreiter; Stabs­gefreiter (~Hạ sĩ).
– OR-3: Haupt­gefreiter; Ober­gefreiter (~Thủy thủ hạng 1).
– OR-2: Gefreiter (~Thủy thủ hạng 2).
– OR-1: Matrose (~Thủy thủ hạng 3).

Phát triển trong tương lai

– Chính phủ Đức đã công bố lựa chọn vào tháng 1/2020 và ký hợp đồng vào tháng 6/2020 Tập đoàn Damen làm nhà thầu chính, cùng với các đối tác Blohm+Voss và Thales, để cung cấp 4 khinh hạm MKS 180 (Mehrzweckkampfschiff 180) cho Hải quân Đức với một tùy chọn cho 2 tàu bổ sung. Các con tàu sẽ được đóng tại nhà máy đóng tàu Blohm + Voss ở Hamburg và tại các địa điểm đóng tàu khác của Tập đoàn Lürssen Bắc Đức.

– 2 tàu ngầm Type 212 được phát triển thêm với những tiến bộ đáng kể (Thiết kế chung) sẽ được thiết kế và mua sắm với Na Uy trong thập kỷ tới. Hợp đồng được ký vào tháng 7/2021, trong đó theo tuyên bố chính thức, “NDMA và các đối tác Đức tại Bundesamt für Ausrüstung, Informationstechnik und Nutzung der Bundeswehr (BAAINBw) sẽ mua 6 tàu ngầm mới – 4 chiếc Na Uy và 2 chiếc Đức – cũng như Tên lửa tấn công hải quân để sử dụng trên cả tàu hải quân Đức và Na Uy”. Theo ThyssenKrupp Marine Systems, việc giao 2 tàu này cho Hải quân Đức được lên kế hoạch vào năm 2032 và 2034.

– 5 tàu ​​hộ tống lớp Braunschweig bổ sung đã được đặt hàng và sẽ được giao vào năm 2020-2023.

– Máy bay trực thăng NH90 NFH “Sea Tiger” được đặt hàng để thay thế Lynx trong vai trò ASW/AsuW, ban đầu được Quân đội Đức đặt hàng dưới dạng biến thể NH90 TTH với kế hoạch giao hàng từ năm 2025 trở đi. Lên đến 31 có thể được đặt hàng.

– 18 Máy bay trực thăng “Sealion” NH90 MRH không được trang bị vũ khí và sẽ thay thế 21 máy bay trực thăng Sea King hiện tại của Lực lượng Không quân Hải quân 5 cho tìm kiếm cứu nạn (SAR) và Vai trò Vận tải trên tàu (VertRep) với kế hoạch giao hàng từ năm 2019 trở đi.

– Saab Skeldar đã được đặt hàng để thử nghiệm UAV hàng hải trong tương lai cho tàu hộ tống lớp Braunschweig.

– Tích hợp Thủy quân lục chiến của Hải quân Đức (Seebatallion) trong Thủy quân lục chiến Hà Lan và sử dụng các tàu đổ bộ của Hải quân Hoàng gia Hà Lan như Tàu hỗ trợ chung HNLMS Karel Doorman (A833) kể từ năm 2016.

– Vào tháng 6/2020, có thông báo rằng Hải quân Đức và Hải quân Hoàng gia Hà Lan sẽ hợp tác và lên kế hoạch thay thế tương lai cho cả khinh hạm lớp Sachsen và khinh hạm lớp De Zeven Provinciën từ năm 2030 trở đi./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *