Triết học chiến tranh (philosophy of war) là lĩnh vực triết học dành để xem xét các vấn đề như nguyên nhân chiến tranh, mối quan hệ giữa chiến tranh và bản chất con người, cũng như đạo đức chiến tranh. Một số khía cạnh của triết học chiến tranh trùng lặp với triết học lịch sử, triết học chính trị, quan hệ quốc tế và triết học pháp luật.
Tác phẩm về triết học chiến tranh
Có lẽ tác phẩm vĩ đại nhất và có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực triết học chiến tranh là cuốn On War (Bàn về chiến tranh) của Carl von Clausewitz, xuất bản năm 1832. Nó kết hợp những quan sát về chiến lược với những câu hỏi về bản chất con người và mục đích của chiến tranh. Clausewitz đặc biệt xem xét mục đích luận của chiến tranh: liệu chiến tranh có phải là một phương tiện để đạt được mục đích bên ngoài chính nó hay liệu nó có thể là mục đích tự thân hay không. Ông kết luận rằng điều sau không thể như vậy, và chiến tranh là “chính trị bằng những cách khác nhau”; tức là chiến tranh không được tồn tại chỉ vì lợi ích của chính nó. Nó phải phục vụ mục đích nào đó cho nhà nước.
Cuốn tiểu thuyết Chiến tranh và Hòa bình năm 1869 của Lev Tolstoy chứa đựng những lạc đề triết học thường xuyên về triết học chiến tranh (và những suy đoán siêu hình rộng hơn bắt nguồn từ Cơ đốc giáo và từ những quan sát của Tolstoy về Chiến tranh Napoléon). Nó có ảnh hưởng đến suy nghĩ sau này về chiến tranh. Triết lý chiến tranh lấy Cơ đốc giáo làm trung tâm của Tolstoy (đặc biệt là các tiểu luận “Thư gửi một người theo đạo Hindu” (1908) và “Vương quốc của Chúa ở trong bạn” (1894)) đã ảnh hưởng trực tiếp đến triết lý phản kháng bất bạo động lấy Ấn giáo làm trung tâm của Gandhi.
Viết vào năm 1869, Genrikh Leer nhấn mạnh những tác động thuận lợi của chiến tranh đối với các quốc gia: “… chiến tranh nổi lên như một công cụ mạnh mẽ trong vấn đề cải thiện đời sống nội tâm, đạo đức và vật chất của các dân tộc …”.
Trong khi Binh pháp của Tôn Tử (thế kỷ thứ V TCN), tập trung chủ yếu vào vũ khí và chiến lược thay vì triết học, nhiều nhà bình luận khác đã mở rộng quan sát của ông sang các triết học được áp dụng trong các tình huống vượt xa chính chiến tranh như cạnh tranh hoặc quản lý. Vào đầu thế kỷ XVI, các phần trong kiệt tác Quân vương (The Prince) của Niccolò Machiavelli (cũng như các Bài diễn văn của ông) và các phần trong tác phẩm của Machiavelli có tựa đề Nghệ thuật chiến tranh (The Art of War) thảo luận về một số quan điểm triết học liên quan đến chiến tranh, mặc dù không thể coi cuốn sách nào là một tác phẩm về triết lý chiến tranh.
Lý thuyết chiến tranh chính nghĩa (Just War Theory)
Sử thi Hindu của Ấn Độ, Mahabharata, đưa ra những thảo luận bằng văn bản đầu tiên về một “cuộc chiến chính nghĩa” (dharma-yuddha). Trong đó, một trong năm anh em cầm quyền (Pandavas) hỏi liệu những đau khổ do chiến tranh gây ra có thể biện minh được hay không. Sau đó, một cuộc thảo luận kéo dài xảy ra giữa các anh chị em, thiết lập các tiêu chí như tính tương xứng (xe không thể tấn công kỵ binh, chỉ các xe khác; không tấn công người gặp nạn), phương tiện chính đáng (không có mũi tên tẩm độc hoặc có gai), chỉ là nguyên nhân (không tấn công vì giận dữ), và đối xử công bằng với những người bị bắt và bị thương. Lý thuyết chiến tranh chính nghĩa đưa ra giả thuyết về những khía cạnh nào của chiến tranh có thể biện minh được theo các nguyên tắc được chấp nhận về mặt đạo đức. Lý thuyết chiến tranh chính nghĩa dựa trên 4 tiêu chí cốt lõi mà những người quyết tâm tham chiến phải tuân theo. Bốn nguyên tắc như sau: thẩm quyền công bằng; chỉ là nguyên nhân; ý định đúng đắn; phương sách cuối cùng.
Danh chính ngôn thuận (just authority)
Tiêu chí của danh chính ngôn thuận đề cập đến tính hợp pháp được xác định của việc tham chiến, và liệu khái niệm chiến tranh và việc theo đuổi nó có được xử lý và biện minh một cách hợp pháp hay không.
Lý do chính đáng (just cause)
Lý do chính đáng là cho rằng chiến tranh là phản ứng thích hợp và cần thiết. Nếu có thể tránh được chiến tranh thì điều đó phải được xác định trước tiên, theo triết lý của lý thuyết chiến tranh chính nghĩa.
Ý định đúng đắn (right intention)
Để tham chiến, người ta phải xác định xem ý định làm như vậy có đúng đạo đức hay không. Tiêu chí về ý định đúng đắn đòi hỏi phải xác định xem liệu phản ứng chiến tranh có phải là một cách có thể đo lường được đối với cuộc xung đột đang được thực hiện hay không.
Phương sách cuối cùng (last resort)
Chiến tranh là phản ứng cuối cùng, có nghĩa là nếu xảy ra xung đột giữa các bên bất đồng, mọi giải pháp phải được cố gắng trước khi dùng đến chiến tranh.
Truyền thống tư tưởng
Vì triết học chiến tranh thường được coi là một tập hợp con của một nhánh triết học khác (ví dụ, triết học chính trị hoặc triết học luật pháp) nên sẽ rất khó để định nghĩa bất kỳ trường phái tư tưởng rõ ràng nào theo cùng nghĩa mà, ví dụ, Chủ nghĩa hiện sinh hoặc Chủ nghĩa khách quan có thể được mô tả là các phong trào riêng biệt. Bách khoa toàn thư Triết học Stanford gọi Carl von Clausewitz là “triết gia (cái gọi là) duy nhất về chiến tranh”, ngụ ý rằng ông là nhà văn triết học (chính) duy nhất phát triển một hệ thống triết học tập trung hoàn toàn vào chiến tranh. Tuy nhiên, các truyền thống tư tưởng rõ ràng về chiến tranh đã phát triển theo thời gian, do đó một số nhà văn đã có thể phân biệt các phạm trù rộng (mặc dù có phần lỏng lẻo).
Các phạm trù mục đích luận
Phần giới thiệu của Anatol Rapoport cho ấn bản của ông về bản dịch của JJ Graham về Cuộc chiến của Clausewitz xác định ba truyền thống mục đích luận chính trong triết lý chiến tranh: thảm họa, cánh chung và chính trị (On War, phần giới thiệu của Rapoport, trang 13).
Đây không phải là những triết lý mục đích luận duy nhất có thể có về chiến tranh, mà chỉ là ba trong số những triết lý phổ biến nhất. Như Rapoport nói, “Nói một cách ẩn dụ, trong triết học chính trị, chiến tranh được so sánh với một ván cờ chiến lược (như cờ vua); trong triết học cánh chung, đến một sứ mệnh hay đoạn mở đầu của một vở kịch; trong triết học thảm họa, đến hỏa hoạn hoặc dịch bệnh”.
Tất nhiên, những điều này không làm cạn kiệt quan điểm về chiến tranh đang thịnh hành ở những thời điểm và địa điểm khác nhau. Ví dụ, chiến tranh đôi khi được coi là một trò tiêu khiển hoặc một cuộc phiêu lưu, là nghề nghiệp thích hợp duy nhất của một nhà quý tộc, là một vấn đề danh dự (ví dụ: những ngày của tinh thần hiệp sĩ), như một nghi lễ (ví dụ như giữa những người Aztec), như một lối thoát cho bản năng hung hãn hoặc một biểu hiện của “ước muốn chết”, như cách tự nhiên đảm bảo sự sống sót của kẻ mạnh nhất, như một sự phi lý (ví dụ ở người Eskimo), như một phong tục ngoan cường, được định sẵn sẽ chết như chế độ nô lệ, và như một tội ác. (On War, phần giới thiệu của Rapoport, trang 17).
Trường phái tư tưởng Cataclysmic, được Lev Tolstoy tán thành trong cuốn tiểu thuyết sử thi Chiến tranh và Hòa bình của ông, coi chiến tranh là một tai họa đối với nhân loại – dù có thể tránh được hay không thể tránh khỏi – vốn không phục vụ được mục đích gì ngoài việc gây ra sự hủy diệt và đau khổ, và có thể gây ra sự thay đổi mạnh mẽ đối với xã hội, nhưng không theo bất kỳ ý nghĩa mục đích luận nào. Quan điểm của Tolstoy có thể được xếp vào tiểu thể loại triết học chiến tranh mang tính thảm họa toàn cầu. Một tiểu thể loại khác của trường phái tư tưởng thảm họa là thảm họa lấy dân tộc làm trung tâm, trong đó quan điểm này đặc biệt tập trung vào hoàn cảnh của một dân tộc hoặc quốc gia cụ thể, chẳng hạn như quan điểm trong đạo Do Thái coi chiến tranh là sự trừng phạt của Chúa đối với người Israel trong một số cuốn sách về chiến tranh. Tenakh (Cựu Ước). Như Tenakh (trong một số cuốn sách) coi chiến tranh là một hành động không thể tránh khỏi của Chúa, nên Tolstoy đặc biệt nhấn mạnh chiến tranh như một điều gì đó xảy đến với con người và không hề chịu ảnh hưởng của “ý chí tự do” của con người, mà thay vào đó là kết quả của xu hướng toàn cầu không thể cưỡng lại được. lực lượng. (On War, phần giới thiệu của Rapoport trang 16)
Trường phái tư tưởng Eschatological coi mọi cuộc chiến tranh (hoặc mọi cuộc chiến tranh lớn) đều dẫn đến một số mục tiêu, và khẳng định rằng một số cuộc xung đột cuối cùng một ngày nào đó sẽ giải quyết con đường mà mọi cuộc chiến tranh đều đi theo và dẫn đến một cuộc biến động lớn của xã hội và một xã hội mới sau đó không có chiến tranh (trong các lý thuyết khác nhau, xã hội kết quả có thể là một xã hội không tưởng hoặc một xã hội phản địa đàng). Có hai tập hợp con của quan điểm này: lý thuyết Messia và lý thuyết Toàn cầu. Khái niệm của chủ nghĩa Marx về một thế giới cộng sản do giai cấp vô sản cai trị sau một cuộc cách mạng toàn cầu cuối cùng là một ví dụ về lý thuyết toàn cầu, và khái niệm của Cơ đốc giáo về một cuộc chiến tranh Armageddon sẽ báo hiệu sự tái lâm của Chúa Kitô và sự thất bại cuối cùng của Satan là một ví dụ về một lý thuyết có thể thuộc về Toàn cầu hoặc Messia. (Về chiến tranh, phần giới thiệu của Rapoport, 15) Triết lý về ngày tận thế của Messia bắt nguồn từ khái niệm về Đấng cứu thế của Do Thái giáo-Cơ đốc giáo, và coi chiến tranh là đỉnh cao trong sự thống nhất của nhân loại dưới một đức tin duy nhất hoặc một người cai trị duy nhất. Các cuộc Thập tự chinh, Thánh chiến, khái niệm của Đức Quốc xã về một Chủng tộc Thượng đẳng và khái niệm về Vận mệnh Hiển nhiên của người Mỹ thế kỷ 19 cũng có thể nằm trong tiêu đề này. (Về Chiến tranh, phần giới thiệu của Rapoport, 15). Trường phái tư tưởng Chính trị, mà Clausewitz là người đề xướng, coi chiến tranh là một công cụ của nhà nước. Trên trang 13 Rapoport nói, “Clausewitz coi chiến tranh là một công cụ hợp lý của chính sách quốc gia. Ba từ “hợp lý”, “công cụ” và “quốc gia” là những khái niệm chính trong mô hình của ông. Theo quan điểm này, quyết định tiến hành chiến tranh “phải” hợp lý, theo nghĩa là nó phải dựa trên chi phí và lợi ích ước tính của chiến tranh. Tiếp theo, chiến tranh “phải” là công cụ, theo nghĩa là nó phải được tiến hành để đạt được mục tiêu nào đó, không bao giờ vì mục đích riêng của nó; và cũng theo nghĩa là chiến lược và chiến thuật chỉ nên hướng tới một mục đích duy nhất, đó là hướng tới chiến thắng. Cuối cùng, chiến tranh “phải” mang tính dân tộc, theo nghĩa mục tiêu của nó là thúc đẩy lợi ích của một quốc gia và toàn bộ nỗ lực của quốc gia phải được huy động để phục vụ mục tiêu quân sự.
Sau đó, ông mô tả triết lý đằng sau Chiến tranh Việt Nam và các cuộc xung đột khác trong Chiến tranh Lạnh là “Tân Clausewitzian”. Rapoport cũng coi Machiavelli như một ví dụ ban đầu về triết lý chính trị của chiến tranh (On War, phần giới thiệu của Rapoport, 13). Nhiều thập kỷ sau bài tiểu luận của ông, Cuộc chiến chống khủng bố và Chiến tranh Iraq do Hoa Kỳ bắt đầu dưới thời Tổng thống George W. Bush vào năm 2001 và 2003 thường được biện minh theo học thuyết về quyền ưu tiên, một động cơ chính trị nói rằng Hoa Kỳ phải sử dụng chiến tranh để ngăn chặn các cuộc tấn công tiếp theo như vụ tấn công ngày 11/9/2001.
Phạm trù đạo đức
Một hệ thống khả thi khác để phân loại các trường phái tư tưởng khác nhau về chiến tranh có thể được tìm thấy trong Bách khoa toàn thư Triết học Stanford SEP (Stanford Encyclopedia of Philosophy), dựa trên đạo đức. SEP mô tả ba bộ phận chính trong đạo đức chiến tranh: chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hòa bình và lý thuyết chiến tranh chính nghĩa. Tóm lại:
– Những người theo chủ nghĩa hiện thực thường cho rằng các hệ thống luân lý và đạo đức hướng dẫn các cá nhân trong xã hội không thể áp dụng một cách thực tế cho toàn bộ xã hội để chi phối cách họ, với tư cách là xã hội, tương tác với các xã hội khác. Do đó, mục đích của một quốc gia trong chiến tranh chỉ đơn giản là bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Kiểu suy nghĩ này tương tự như triết lý của Machiavelli, Thucydides và Hobbes cũng có thể thuộc loại này.
– Tuy nhiên, chủ nghĩa hòa bình cho rằng có thể đánh giá đạo đức về chiến tranh và chiến tranh luôn bị coi là vô đạo đức. Nói chung, có hai loại chủ nghĩa hòa bình thế tục hiện đại cần xem xét:
(1) một hình thức chủ nghĩa hòa bình (hoặc CP) mang tính hệ quả hơn, cho rằng lợi ích thu được từ chiến tranh không bao giờ có thể lớn hơn chi phí chiến đấu với nó; và
(2) một hình thức chủ nghĩa hòa bình (hoặc DP) mang tính nghĩa vụ hơn, cho rằng chính hoạt động chiến tranh về bản chất là sai, vì nó vi phạm các nghĩa vụ công lý hàng đầu, chẳng hạn như không giết người.
Eugene Victor Debs và những người khác là những người nổi tiếng ủng hộ các phương pháp ngoại giao hòa bình thay vì chiến tranh. Vào cuối thế kỷ XX, các nhà triết học xã hội như Robert L. Holmes cũng nỗ lực áp dụng cả hai hình thức lý thuyết của chủ nghĩa hòa bình thế tục vào bối cảnh các hình thức chiến tranh hiện đại bao gồm chiến tranh hạt nhân và khủng bố.
– Lý thuyết chiến tranh công bằng, cùng với chủ nghĩa hòa bình, cho rằng đạo đức cũng áp dụng được cho chiến tranh. Tuy nhiên, không giống như chủ nghĩa hòa bình, theo lý thuyết chiến tranh chính nghĩa,chiến tranh có thể được biện minh về mặt đạo đức. Khái niệm về một cuộc chiến tranh chính đáng về mặt đạo đức làm nền tảng cho phần lớn khái niệm luật pháp quốc tế, chẳng hạn như các Công ước Geneva. Aristotle, Cicero, Augustine, Aquinas và Hugo Grotius nằm trong số những triết gia đã tán thành một số dạng triết lý chiến tranh chính nghĩa. Một đánh giá lý thuyết chiến tranh công bằng phổ biến về chiến tranh là chiến tranh chỉ được biện minh nếu:
1) được tiến hành để tự vệ của một tiểu bang hoặc quốc gia, hoặc
2) được tiến hành để chấm dứt những vi phạm trắng trợn về nhân quyền.
Nhà triết học chính trị John Rawls ủng hộ những tiêu chí này để biện minh cho chiến tranh./.