CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (Scientific socialism)

Chủ nghĩa xã hội khoa học (scientific socialism) là một thuật ngữ được Pierre-Joseph Proudhon đặt ra vào năm 1840 trong cuốn sách Tài sản là gì? (What is Property?) của ông, có nghĩa là một xã hội được cai trị bởi một chính phủ khoa học, tức là một xã hội có chủ quyền dựa trên lý trí, thay vì ý chí tuyệt đối: “Do đó, trong một xã hội nhất định, quyền lực của con người đối với con người tỷ lệ nghịch với giai đoạn phát triển trí tuệ mà xã hội đó đã đạt được; và thời gian tồn tại có thể có của quyền lực đó có thể được tính toán từ mong muốn chung ít nhiều về một chính phủ thực sự, nghĩa là, về một chính phủ khoa học. Và cũng giống như quyền lực và quyền thủ đoạn rút lui trước sự tiến triển đều đặn của công lý, và cuối cùng phải bị dập tắt trong sự bình đẳng, thì quyền tối cao của ý chí cũng nhường chỗ cho quyền tối cao của lý trí, và cuối cùng phải mất đi trong chủ nghĩa xã hội khoa học”.

Trong cuốn sách The Holy Family xuất bản năm 1844, Karl MarxFriedrich Engels mô tả các tác phẩm của các nhà văn xã hội chủ nghĩa, cộng sản Théodore Dézamy và Jules Gay là thực sự “khoa học”. Sau đó vào năm 1880, Engels đã sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội khoa học” để mô tả lý thuyết kinh tế-chính trị-xã hội của Marx.

Mặc dù thuật ngữ chủ nghĩa xã hội đã có nghĩa cụ thể là sự kết hợp giữa khoa học chính trịkinh tế, nhưng nó cũng có thể áp dụng cho một lĩnh vực khoa học rộng hơn bao gồm những gì hiện được coi là xã hội học (sociology) và khoa học nhân văn (humanities). Sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng (utopian socialism) và chủ nghĩa xã hội khoa học bắt nguồn từ Mác, người đã chỉ trích các đặc điểm không tưởng của chủ nghĩa xã hội Pháp và kinh tế chính trị Anh và Scotland. Sau đó, Engels lập luận rằng những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không nhận ra lý do tại sao chủ nghĩa xã hội lại nảy sinh trong bối cảnh lịch sử như vậy, rằng nó nảy sinh như một phản ứng đối với những mâu thuẫn xã hội mới của một phương thức sản xuất mới, tức là chủ nghĩa tư bản (capitalism). Khi nhận ra bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải pháp cho mâu thuẫn này và áp dụng sự hiểu biết khoa học sâu sắc về chủ nghĩa tư bản, Engels khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội đã thoát khỏi trạng thái nguyên thủy và trở thành một khoa học.

Ví dụ

Ở Bangladesh sau năm 1971, Jatiya Samajtantrik Dal được thành lập với mục đích thực hiện quyền cai trị dựa trên chủ nghĩa xã hội khoa học.

Ở Nhật Bản, Đảng Cộng sản Nhật Bản có hệ tư tưởng dựa trên chủ nghĩa xã hội khoa học.

Phương pháp luận

Chủ nghĩa xã hội khoa học đề cập đến một phương pháp để hiểu và dự đoán các hiện tượng xã hội, kinh tế và vật chất bằng cách kiểm tra các xu hướng lịch sử của chúng thông qua việc sử dụng phương pháp khoa học để đưa ra các kết quả có thể xảy ra và các diễn biến có thể xảy ra trong tương lai. Nó trái ngược với những gì những người theo chủ nghĩa xã hội sau này gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng – một phương pháp dựa trên việc thiết lập các đề xuất có vẻ hợp lý để tổ chức xã hội và thuyết phục những người khác về tính hợp lý và/hoặc tính mong muốn của chúng. Nó cũng trái ngược với các khái niệm tự do cổ điển về luật tự nhiên, vốn dựa trên các khái niệm siêu hình về đạo đức hơn là một quan niệm duy vật hoặc duy vật lý năng động về thế giới.

Những người theo chủ nghĩa xã hội khoa học coi sự phát triển xã hội và chính trị phần lớn được quyết định bởi các điều kiện kinh tế, trái ngược với các ý tưởng của những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng và những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển, và do đó tin rằng các mối quan hệ xã hội và các khái niệm về đạo đức dựa trên bối cảnh liên quan đến giai đoạn phát triển kinh tế cụ thể của họ. Họ tin rằng với tư cách là các hệ thống kinh tế, chủ nghĩa xã hội (socialism) và chủ nghĩa tư bản (capitalism) không phải là những cấu trúc xã hội có thể được thiết lập bất cứ lúc nào dựa trên ý chí và mong muốn chủ quan của dân chúng, mà thay vào đó là sản phẩm của quá trình tiến hóa xã hội. Một ví dụ về điều này là sự ra đời của nông nghiệp giúp các cộng đồng loài người có thể sản xuất ra thặng dư – sự thay đổi này trong phát triển vật chất và kinh tế dẫn đến sự thay đổi trong các mối quan hệ xã hội và khiến hình thức tổ chức xã hội cũ dựa trên cuộc sống tự cung tự cấp trở nên lỗi thời và cản trở sự tiến bộ vật chất hơn nữa. Các điều kiện kinh tế thay đổi đòi hỏi phải thay đổi trong tổ chức xã hội.

Trong tập hợp các văn bản của mình, In Defence of Marxism, Leon Trotsky đã bảo vệ phương pháp biện chứng (dialectical method) của chủ nghĩa xã hội khoa học trong các cuộc chia rẽ phe phái trong phong trào Trotskyist của Mỹ trong giai đoạn 1939-1940. Trotsky coi biện chứng là một phương pháp phân tích thiết yếu để phân biệt bản chất giai cấp của Liên Xô. Cụ thể, ông mô tả chủ nghĩa xã hội khoa học là “biểu hiện có ý thức của quá trình lịch sử vô thức; cụ thể là động lực bản năng và cơ bản của giai cấp vô sản nhằm tái thiết xã hội trên nền tảng cộng sản”./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *