Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu: Krasnoe Sormovo
– Nhà khai thác: Hải quân Nga
– Được xây dựng: 1982-1989
– Phục vụ: 1986 – nay
– Đã hoàn thành: 5
– Đang hoạt động: 4
– Kiểu loại: phương tiện cứu hộ lặn sâu
– Lượng giãn nước: 55 tấn
– Chiều dài: 13,5 m
– Chiều rộng: 3,8 m
– Chiều cao: 4,6 m
– Tốc độ:
+ Tối đa 3,3 hl/g (6,1 km/h)
+ Hành trình 2,3 hl/g (4,3 km/h)
+ Tốc độ đi lên: 0,5 m/s
– Tầm hoạt động: 21 hl (39 km)
– Sức bền:
+ 120 giờ với 4 người trên tàu
+ 10 giờ với 24 người trên tàu
– Độ sâu kiểm tra: 1.000 m
– Sức chứa: 20 hành khách
– Kíp vận hành: 4 người.
Priz (Project 1855) là một loại Phương tiện cứu hộ lặn sâu (DSRV, Deep Submergence Rescue Vehicle) do chính phủ Nga vận hành. Được biết có ít nhất 5 tàu cùng lớp, một số trong số đó đã tham gia vào nỗ lực cứu hộ thất bại khi tàu Kursk bị chìm vào ngày 12/8/2000. Từ “Priz” (“приз”) trong tiếng Nga có nghĩa là “giải thưởng”.
Tàu vỏ titan dài 13,5 m, rộng 3,8 m và cao 4,6 m, lượng giãn nước 55 tấn. Có khả năng hoạt động ở độ sâu lên đến 1000 m, chúng có tầm hoạt động 21 hl (39 km), với tốc độ tối đa 3,3 hl/g (6 km/h). Với thủy thủ đoàn 4 người, họ có thể ở dưới nước lên đến 120 giờ, nhưng với thủy thủ đoàn và 20 hành khách trên tàu, thời gian này giảm xuống còn 10 giờ. Các tàu Priz được trang bị bộ điều khiển có thể nâng lên đến 50 kg.
Theo một báo cáo trên kênh truyền hình Nga (Vesti, trên kênh Rossiya, ngày 7/8/2005), tàu Project 1855 Priz được thiết kế bởi Phòng thiết kế Lazurit của Nizhny Novgorod, và 4 sửa đổi đã được thực hiện: AS-26 (1986), AS-28 (1989), AS-30 (1989) và AS-34 (1991).
Priz được cho là có thể hoạt động được cả có người lái hoặc không người lái với thời lượng pin kéo dài 3 giờ. Trong những năm 2006-2016, lớp tàu này được nâng cấp để cải thiện khả năng điều hướng, tìm kiếm và hỗ trợ sự sống của nó.
Các tàu ngầm Priz được thực hiện bởi các tàu hỗ trợ lặn lớp Pionier Moskvyy (Project 05360/05361), có thể mang theo 2 trong số các tàu ngầm. Các tàu được trang bị các thiết bị đặc biệt để triển khai Priz khi biển động.
Hiện có 4 tàu Priz đang hoạt động:
– AS-26
– AS-28 (bị sự cố ngoài khơi Kamchatka, ngày 5/8, được giải cứu ngày 7/8/2005)
– AS-30
– AS-34
Sự cố tai nạn của AS-28 và cuộc giải cứu thành công
AS-28 được đưa vào trang bị năm 1986.
Vào ngày 5/8/2005, AS-28, trong khi huấn luyện, dưới sự chỉ huy của Trung úy Vyacheslav Milashevskiy, đã vướng vào phần phía trên của một dàn thủy phi cơ ngoài khơi bờ biển bán đảo Kamchatka, trong Vịnh Berezovaya, cách Petropavlovsk-Kamchatskiy, Kamchatka Oblast 70 km về phía đông nam. Các khối bê tông nặng 60 tấn đã kẹp chặt chân vịt của tàu ngầm, và sau đó tàu ngầm chìm xuống đáy biển ở độ sâu 190 m. Chỗ này quá sâu để nhóm 7 người của con tàu có thể rời tàu ngầm và bơi lên mặt nước. Lực lượng cứu hộ Anh và các quan chức Nga cho biết lưới đánh cá cũng đã vướng vào con tàu.
Ngày 6/8, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh cho Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Ivanov bay tới Petropavlovsk-Kamchatsky để giám sát hoạt động cứu hộ dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Nga, Đô đốc Viktor Fedorov.
Vào ngày 7/8, tất cả 7 thành viên trên tàu đã được giải cứu sau khi dây cáp mắc vào tàu được một phương tiện điều khiển từ xa (ROV, remotely operated vehicle) của Anh cắt đứt . Chiếc tàu ngầm nổi lên lúc 4:26 chiều theo giờ địa phương vào Chủ nhật và tất cả 7 thủy thủ đoàn đã rời khỏi tàu mà không cần sự trợ giúp.
Quá trình giải cứu:
Hải quân Nga đã yêu cầu hỗ trợ sau ít nhất 24 giờ, nhanh hơn nhiều so với phản ứng của họ khi tàu Kursk bị chìm vào ngày 12/8/2000. Có ý kiến cho rằng lần này người Nga có thể đã kêu gọi sự giúp đỡ nhanh chóng như khi họ tham gia một cuộc tập trận gần đây với NATO.
Sự hỗ trợ ngay lập tức đã được cung cấp bởi Hải quân Hoàng gia, Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản và Hải quân Hoa Kỳ. Vương quốc Anh đã gửi một chiếc ROV Scorpio 45 bằng máy bay chở hàng C-17 Globemaster III và một đội vận hành nó. Hoa Kỳ đã gửi một ROV Super Scorpio không người lái từ San Diego, được vận chuyển bằng máy bay vận chuyển C-5 Galaxy. Mỗi phương tiện không người lái cũng được đi cùng với một nhóm để vận hành nó. Dự định là những tàu cứu hộ không người lái này, với cánh tay robot của chúng, có thể cắt lưới hoặc dây cáp mắc vào tàu. ROV của Mỹ được lắp ráp trên tàu hỗ trợ của Priz sẵn sàng cho phương án 2, mặc dù ROV Scorpio của Anh đang thực hiện cuộc giải cứu mà sau đó đã thành công.
Đô đốc Nga Fedorov (Fyodorov) lần đầu tiên thảo luận về việc sử dụng chất nổ để cắt dây cáp nhưng những chiến thuật đó không bao giờ được sử dụng. Thay vào đó, các tàu kéo vượt đại dương của Nga MB-105 và KIL-168 đã cố gắng nâng chiếc tàu bị kẹt lên bề mặt bằng cách sử dụng dây cáp bên dưới. Cố gắng này đã được chứng minh là vô ích. Trong khi đó, để tiết kiệm năng lượng và oxy, những người trong tàu lặn AS-28 đã phải tắt các hệ thống không thiết yếu của tàu (bao gồm cả lò sưởi), mặc bộ quần áo giữ nhiệt và nghỉ ngơi.
Tất cả 7 thủy thủ đoàn đều còn sống và có thể tự trèo ra khỏi tàu trong giây lát kể từ khi nó nổi lên. Họ đã bị mắc kẹt trong tàu hơn 76 giờ và lực lượng cứu hộ nhận thấy rằng họ chỉ có đủ oxy để tồn tại nhiều nhất 12 giờ nữa. Họ cũng thiếu nước một cách tuyệt vọng, trong đó họ chỉ uống được ba hoặc bốn ngụm mỗi ngày.
Câu chuyện về cuộc giải cứu tàu ngầm đã được giới thiệu trên bộ phim tài liệu Giải cứu tàu ngầm của đài BBC One. Bộ phim tài liệu sau đó đã được trao giải thưởng “phim tài liệu hay nhất” bởi Hiệp hội Hàng hải Anh. Cuộc giải cứu AS-28 của Scorpio cũng được lấy làm chủ đề trong tập thứ 10 của loạt phim tài liệu Tình huống nguy cấp năm 2007-8, có tựa đề “Running Out of Air“.
Những người được cứu:
– Vyacheslav Milashevskiy (Вячеслав Милашевский), trung úy, sĩ quan chỉ huy tàu, 25 tuổi.
– Anatoliy Popov (Анатолий Попов), trung úy, sĩ quan hàng hải.
– Sergey Belozerov (Сергей Белозеров), quân nhân chuyên nghiệp.
– Alexandr Ivanov (Александр Иванов), quân nhân chuyên nghiệp.
– Alexandr Uybin (Александр Уйбин), quân nhân chuyên nghiệp.
– Valeriy Lepetyukha (Валерий Лепетюха), đại tá.
– Gennadiy Bolonin (Геннадий Болонин), Phó Giám đốc Lazurit, tổ chức chế tạo AS-28./.