TÀU NGẦM DIESEL-ĐIỆN LỚP K (LIÊN XÔ)

Tổng quan:
– Nhà vận hành: Hải quân Liên Xô
– Lớp trước: lớp S
– Lớp sau: Zulu (Project 611)
– Lịch sử phục vụ: 1939-1959; phục vụ 1940-1959
– Kế hoạch đóng: 12 chiếc
– Hoàn thành: 12
– Tai nạn: 5
– Nghỉ hưu: 7
– Bảo quản: 1
– Kiểu loại: tàu ngầm diesel-điện
– Lượng giãn nước: 1.490 tấn (khi nổi); 2.600 tấn (khi lặn)
– Chiều dài: 97,65 m
– Độ rộng: 7,4 m
– Mớn nước: 4,51 m
– Động lực đẩy: Động cơ máy phát diesel 8.400 mã lực (6.300 kW), điện 2.400 mã lực (1.800 kW), 2 trục
– Tốc độ:
+ 22,5 hl/g (41,7 km/h) khi nổi
+ 10 hl/g (19 km/h) khi lặn
– Phạm vi hoạt động: 14.000 hl (26.000 km) ở tốc độ 11 hl/g (20 km/h)
– Độ sâu giới hạn: 70 m
– Quân số: 67 (10 sĩ quan)
– Vũ khí:
+ 6 × ống phóng lôi mũi tàu
+ 2 ống phóng lôi đuôi tàu
+ 2 × ống phóng ngư lôi ngoài đuôi tàu (24 quả ngư lôi)
+ 2 x khẩu pháo 100 mm
+ 2 x khẩu pháo 45 mm
+ 20 × thủy lôi.

Lớp K là tàu ngầm lớn nhất được chế tạo cho Hải quân Liên Xô trong Thế chiến II.

Thiết kế đã được phê duyệt vào năm 1936 như một “tàu ngầm tuần dương” tầm xa với ngư lôi hạng nặng và vũ khí trang bị pháo. Những chiếc tàu này có thể hoạt động như một “tàu ngầm hạm đội” hoạt động cùng hạm đội chiến đấu hoặc như những kẻ đột kích thương mại tầm xa.

Chúng là một phiên bản cải tiến đáng kể của lớp Pravda và khắc phục hầu hết các thiếu sót của chúng (Conway’s Fighting Ships). Thân tàu đôi được chia thành 7 khoang. Ban đầu nó được lên kế hoạch mang theo một thủy phi cơ nhỏ để trinh sát nhưng ý tưởng này đã bị loại bỏ khi chiếc máy bay được lên kế hoạch tỏ ra quá mỏng manh.

Yakubov và Worth tuyên bố rằng đây là những tàu ngầm thành công nhất của Liên Xô trong thời kỳ Thế chiến II, với tốc độ cao và khả năng bám biển tốt. Lớp tàu ngầm này sở hữu hệ thống thông gió và điều hòa không khí tốt hơn bất kỳ lớp tàu ngầm nào khác của Liên Xô trong Thế chiến II. Chúng có các tiện nghi như giường tầng cho mỗi thủy thủ, cabin nhỏ cho mỗi sĩ quan, vòi hoa sen, lò sưởi điện (lớp này được thiết kế để hoạt động chủ yếu ở Bắc Cực) và một bếp điện. Thân tàu cung cấp chỗ ở rộng rãi. Thời gian lặn là 60 giây. Các nhà xây dựng hải quân Hoa Kỳ đã kiểm tra K-21 vào năm 1944, và cho rằng thiết kế này giống như công nhân nhưng kém hơn về mặt kỹ thuật so với những chiếc tàu đương đại của Hoa Kỳ chẳng hạn tàu ngầm như lớp Gato.

Một thiết kế cải tiến, lớp KU, được chế tạo bằng hàn đã được lên kế hoạch vào năm 1941. 24 chiếc thuyền KU đã được lên kế hoạch, nhưng không chiếc nào được khởi đóng.

Tất cả 12 chiếc tàu đều được đóng bởi Marti Yard / Ordzhinikidze Yard, Leningrad, trên Biển Baltic, cho Hạm đội Phương Bắc của Liên Xô. K-1 đến K-23 đã được chuyển trước Cuộc xâm lược của Đức và K-51 đến K-56 bị mắc kẹt ở Leningrad trong thời gian bị phong tỏa; chúng được hoàn thành sau chiến tranh và được chuyển đến Bắc Cực./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *