Tàu chở hàng đổ bộ (Amphibious cargo ship) là các tàu của Hải quân Hoa Kỳ được thiết kế đặc biệt để chở binh lính, thiết bị hạng nặng và vật tư hỗ trợ cho các cuộc tấn công đổ bộ và cung cấp hỏa lực hỗ trợ hải quân trong các cuộc tấn công đó. Tổng cộng có 108 chiếc trong số này được đóng từ năm 1943 đến năm 1945, tính ra trung bình cứ 8 ngày lại có một chiếc. Sáu AKA bổ sung, có thiết kế mới và cải tiến, đã được chế tạo trong những năm sau đó. Ban đầu chúng được gọi là Tàu chở hàng tấn công (Attack Cargo Ships) và được chỉ định là AKA. Năm 1969, chúng được đổi tên thành Tàu chở hàng đổ bộ (Amphibious Cargo Ships) và được đặt tên lại là LKA.
So với các loại tàu chở hàng khác, những con tàu này có thể chở tàu đổ bộ, nhanh hơn, trang bị nhiều vũ khí hơn, đồng thời có cửa sập và cần cẩu lớn hơn. Hầm chứa của chúng được tối ưu hóa cho tải trọng chiến đấu, một phương pháp cất giữ hàng hóa trong đó các vật phẩm cần lên bờ lần đầu tiên ở trên cùng của hầm hàng và những vật dụng cần thiết sau này sẽ được hạ xuống thấp hơn. Bởi vì những con tàu này đi vào các khu vực chiến đấu phía trước, chúng có Trung tâm Thông tin chiến đấu và một lượng đáng kể thiết bị liên lạc vô tuyến, cả hai thứ này đều không có trên các con tàu chở hàng khác.
Khi các hoạt động đổ bộ trở nên quan trọng hơn trong Thế chiến II, các nhà hoạch định nhận thấy sự cần thiết của một loại tàu chở hàng đặc biệt, loại có thể chở cả hàng hóa và các tàu LCM và LCVP (landing craft, vehicle, personnel) để tấn công bãi biển, đồng thời mang theo súng để hỗ trợ phòng không và bắn phá bờ biển. Các thông số kỹ thuật đã được soạn thảo và bắt đầu từ đầu năm 1943, 16 tàu chở hàng tấn công đầu tiên của Hoa Kỳ đã được chuyển đổi từ các tàu chở hàng của Hải quân trước đây được chỉ định là AK. Trong suốt cuộc chiến, 108 con tàu như vậy đã được đóng; nhiều trong số chúng đã được chuyển đổi từ tàu phi quân sự, hoặc bắt đầu như thân tàu phi quân sự.
Các tàu chở hàng tấn công đóng một vai trò quan trọng trong Chiến tranh Thái Bình Dương, nơi nhiều chiếc bị kamikaze và các máy bay khác tấn công, và một số bị trúng ngư lôi, nhưng không chiếc nào bị đánh chìm hoặc bị phá hủy. 9 AKA đã có mặt tại buổi lễ đầu hàng ở Vịnh Tokyo vào ngày 2/9/1945.
Sau chiến tranh, nhiều AKA được đưa vào Hạm đội Dự bị Quốc phòng. Những chiếc khác được chuyển đổi cho các mục đích sử dụng khác, chẳng hạn như khảo sát hải dương học, đặt cáp dưới biển và sửa chữa các tàu khác.
Một số tàu dự bị đã được cho hoạt động trở lại trong Chiến tranh Triều Tiên, và một số tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam.
Sáu tàu chở hàng đổ bộ khác, có phần nhanh hơn, lớn hơn và có thiết kế cải tiến liên quan đến vận chuyển hàng hóa, được đóng từ năm 1954 đến 1969: USS Tulare (APA/LKA-112) và lớp Charleston.
Năm 1969, Hải quân Hoa Kỳ đặt tên lại tất cả các tàu chở hàng tấn công AKA còn lại của họ thành tàu chở hàng đổ bộ LKA. Đồng thời, một số ký hiệu “A” khác của tàu đổ bộ được đổi thành ký hiệu “L” tương tự; ví dụ: tất cả các APA vận chuyển quân tấn công đều được chỉ định lại thành LPA.
Vào những năm 1960, cả Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia Anh đều phát triển các bến tàu vận tải đổ bộ dần dần đảm nhận vai trò đổ bộ độc đáo này và ngày nay đã đảm nhận hoàn toàn vai trò đó. Tàu chở hàng đổ bộ cuối cùng của Hải quân Hoa Kỳ, USS El Paso (LKA-117), đã ngừng hoạt động vào tháng 4/1994.
Các tàu trong lớp
– Type C1: Fomalhaut (AKA-5).
– Type C2: Alhena (AKA-9); 11 tàu lớp Arcturus (AKA-1… AKA-14); 32 tàu lớp Tolland (AKA-64… AKA-108); 30 tàu lớp Andromeda (trong phạm vi AKA-15… AKA-100).
– Type C3: Almaack (AKA-10).
– Type S4: 32 tàu Artemis lớp (AKA-21… AKA-52).
– Type C4: Tulare (AKA-112).
– Lớp Charleston: 5 chiếc (LKA-113… LKA-117)./.