CHIẾN DỊCH QUÂN SỰ (Military campaign)

Là một ngôn ngữ còn trẻ, đối với Tiếng Việt mà nói, các khái niệm “military campaign” và “military operation” nói chung sẽ gây xoắn não. Hiểu một cách tóm lược, “campaign” về tiến hành chiến tranh – là một hoạt động quân sự lớn hơn “operation” ở quy mô, thời gian, khu vực triển khai. Tuy nhiên, ở lĩnh vực lý luận, “operation” là một khái niệm trung gian giữa “strategy” (chiến lược) và “tactic” (chiến thuật).

Chiến dịch quân sự (military campaign) là kế hoạch chiến lược quân sự quan trọng, lâu dài, quy mô lớn, kết hợp một loạt các hoạt động hoặc trận chiến quân sự có liên quan với nhau tạo thành một phần riêng biệt của một cuộc xung đột lớn hơn thường được gọi là chiến tranh. Thuật ngữ này bắt nguồn từ vùng đồng bằng Campania, nơi diễn ra các hoạt động thời chiến hàng năm của quân đội Cộng hòa La Mã.

Định nghĩa

1. Chiến dịch quân sự là thời gian một lực lượng quân sự tiến hành hoạt động tác chiến trên một địa bàn nhất định (area of operation, gọi tắt là AO). Một chiến dịch quân sự có thể được thực hiện bởi một Lực lượng Vũ trang đơn lẻ hoặc dưới dạng một chiến dịch quân binh chủng kết hợp được thực hiện bởi các lực lượng trên bộ, hải quân, không quân, mạng và không gian.

2. Mục đích của một chiến dịch quân sự là đạt được một giải pháp cụ thể mong muốn cho một cuộc xung đột quân sự như là mục tiêu chiến lược của nó. Điều này bị hạn chế bởi nguồn lực, địa lý và/hoặc mùa. Một chiến dịch được đo lường tương ứng với công nghệ mà những kẻ tham chiến sử dụng để đạt được mục tiêu, và trong khi ở châu Âu thời tiền công nghiệp được hiểu là giữa thời điểm trồng trọt (cuối mùa xuân) và thời gian thu hoạch (cuối mùa thu), chiến dịch đã được rút ngắn trong thời kỳ hậu công nghiệp đến vài tuần. Tuy nhiên, do tính chất của mục tiêu chiến dịch, các chiến dịch thường kéo dài vài tháng hoặc tối đa một năm theo định nghĩa của Trevor N. Dupuy.

“Chiến dịch là một giai đoạn của cuộc chiến bao gồm một loạt các hoạt động liên quan đến thời gian và không gian nhằm hướng tới một mục tiêu hoặc kết quả chiến lược, cụ thể, duy nhất trong cuộc chiến. Một chiến dịch có thể bao gồm một trận đánh đơn lẻ, nhưng thường thì nó bao gồm một số trận đánh trong một khoảng thời gian dài hoặc một khoảng cách đáng kể, nhưng trong một chiến trường hoặc khu vực được phân định duy nhất. Một chiến dịch có thể chỉ kéo dài vài tuần nhưng thường kéo dài vài tháng hoặc thậm chí một năm”.

Chỉ đạo
– Lập kế hoạch – Bộ Tổng tham mưu xác định mục tiêu, thời gian, phạm vi và chi phí của chiến dịch.
– Điều hành – phối hợp lực lượng và nguồn lực trong các hoạt động hậu cần và chiến đấu.
– Kiểm soát – giám sát tiến độ của chiến dịch khi so sánh với kế hoạch cơ bản.
– Kết luận – chấp nhận hoặc bác bỏ kết quả chiến dịch theo cơ cấu mệnh lệnh chỉ đạo.

Mùa đông

Trong thời tiền hiện đại, các chiến dịch thường bị gián đoạn trong mùa đông, trong thời gian đó binh lính rút lui vào khu vực trú đông (cantonment) để vượt qua những tháng lạnh giá nhất với sự ấm áp và bảo vệ. Ví dụ, người La Mã cổ đại có castra aestiva (“khu mùa hè”, với lều da) nhưng có nhiều castra hibera cố định hơn (“khu mùa đông”, với doanh trại bằng gỗ). Tuy nhiên, khi thời tiết thuận lợi và có trang thiết bị, vật tư thích hợp, các chiến dịch quân sự có thể kéo dài từ “mùa chiến dịch” (campaigning season) sang mùa đông nhằm khiến kẻ thù mất cảnh giác. Ví dụ, trong Chiến dịch Flanders, tướng Pháp Jean-Charles Pichegru đã bất ngờ vượt qua những con sông Great Rivers đóng băng trong mùa đông khắc nghiệt 1794-1795 và chinh phục Cộng hòa Hà Lan. Nhưng các chiến dịch mùa đông không được chuẩn bị kỹ càng thường gây ra hậu quả tai hại do tỷ lệ binh lính tử vong cao; ví dụ khét tiếng nhất về điều này là cuộc xâm lược Nga của Napoléon (24/6 – 14/12/1812). Vì vậy, các chỉ huy quân đội đã tính đến nhu cầu đưa quân trở về nơi trú đông hoặc thiết lập các nơi trú đông mới ở một địa điểm an toàn trước khi mùa đông đến, không để binh lính của họ dễ bị tổn thương trước kẻ thù cũng như các nhân tố khác.

Sự đánh giá

Sự thành công của một chiến dịch quân sự được đánh giá dựa trên mức độ đạt được các mục tiêu và mục tiêu đã hoạch định thông qua các hoạt động chiến đấu và phi chiến đấu. Điều đó được xác định khi một trong các lực lượng quân sự thiện chiến đánh bại lực lượng quân sự đối phương trong những hạn chế về phân bổ nguồn lực, thời gian và chi phí theo kế hoạch. Cách thức một lực lượng chấm dứt hoạt động thường ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng về sự thành công của chiến dịch. Một chiến dịch có thể kết thúc bằng sự chinh phục và tiếp theo là sự chuyển giao quyền lực quân sự sang chính quyền dân sự và tái triển khai lực lượng hoặc thiết lập vĩnh viễn quyền lực quân sự trong khu vực bị chiếm đóng.

Các chiến dịch quân sự, bên trong và bên ngoài các cuộc chiến tranh được xác định, có thể vượt quá các thông số quy hoạch ban đầu hoặc thậm chí đã được sửa đổi về phạm vi, thời gian và chi phí. Những chiến dịch bị đình trệ như vậy, chẳng hạn như mặt trận phía Tây trong Thế chiến I, trước đây được gọi là “bế tắc” nhưng vào cuối thế kỷ XX, phép ẩn dụ về vũng lầy thường được áp dụng. Tình huống như vậy có thể phát sinh từ nhiều yếu tố khác nhau như:
– Một hy vọng nhỏ cho chiến thắng;
– Mục tiêu được xác định kém;
– Không có chiến lược rút lui rõ ràng./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *