CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN (Communism)

Chủ nghĩa cộng sản (tiếng Anh – communism, từ tiếng Latin – communis, nghĩa là “chung, phổ quát”) là một hệ tư tưởng xã hội chính trị, triết học và kinh tế cánh tả (left-wing) đến cực tả (far-left sociopolitical) trong phong trào xã hội chủ nghĩa (socialist movement), có mục tiêu là tạo ra một xã hội cộng sản, một trật tự kinh tế xã hội tập trung vào quyền sở hữu chung (common ownership) đối với các phương tiện sản xuất (means of production), phân phối và trao đổi, phân bổ sản phẩm cho mọi người trong xã hội dựa trên nhu cầu. Một xã hội cộng sản sẽ đòi hỏi sự triệt thoái của sở hữu tư (private property) và các giai cấp xã hội (social classes), và cuối cùng là tiền bạc và nhà nước (hoặc nhà nước dân tộc).

Những người cộng sản thường tìm kiếm một nhà nước tự quản tự nguyện nhưng không đồng ý về phương tiện để đạt được mục đích này. Điều này phản ánh sự khác biệt giữa cách tiếp cận xã hội chủ nghĩa tự do hơn về cộng sản hóa, tính tự phát cách mạng và sự tự quản của công nhân, và cách tiếp cận tiên phong độc đoán hơn hoặc do đảng cộng sản thúc đẩy thông qua sự phát triển của một nhà nước xã hội chủ nghĩa, tiếp theo là sự tàn lụi của nhà nước. Là một trong những hệ tư tưởng chính trên phổ chính trị (political spectrum), chủ nghĩa cộng sản được xếp vào cánh tả bên cạnh chủ nghĩa xã hội (socialism), và các đảng và phong trào cộng sản đã được mô tả là cánh tả cấp tiến hoặc cực tả.

Các biến thể của chủ nghĩa cộng sản đã được phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, bao gồm chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ (anarchist communism), các trường phái tư tưởng Marxist (Marxist schools of thought) và chủ nghĩa cộng sản tôn giáo (religious communism), cùng những trường phái khác. Chủ nghĩa cộng sản bao gồm nhiều trường phái tư tưởng, bao gồm chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin và chủ nghĩa cộng sản tự do, cũng như các hệ tư tưởng chính trị nhóm lại xung quanh những trường phái đó. Tất cả các hệ tư tưởng khác nhau này thường chia sẻ chung một phân tích rằng trật tự xã hội hiện tại bắt nguồn từ chủ nghĩa tư bản (capitalism), hệ thống kinh tế và phương thức sản xuất (mode of production) của nó, rằng trong hệ thống này có hai giai cấp xã hội chính, rằng mối quan hệ giữa hai giai cấp này là bóc lột, và tình hình này cuối cùng chỉ có thể được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng xã hội. Hai giai cấp là giai cấp vô sản (proletariat), những người chiếm đa số dân số trong xã hội và phải bán sức lao động của mình để tồn tại, và giai cấp tư sản (bourgeoisie), một nhóm thiểu số nhỏ thu được lợi nhuận từ việc sử dụng lao động của giai cấp công nhân thông qua quyền sở hữu tư nhân đối với các phương tiện sản xuất. Theo phân tích này, một cuộc cách mạng cộng sản sẽ đưa giai cấp công nhân (working class) lên nắm quyền, và đổi lại thiết lập chế độ sở hữu chung về tài sản, yếu tố chính trong quá trình chuyển đổi xã hội theo phương thức sản xuất cộng sản.

Chủ nghĩa cộng sản dưới hình thức hiện đại của nó phát triển từ phong trào xã hội chủ nghĩa ở châu Âu thế kỷ XIX, cho rằng chủ nghĩa tư bản gây ra sự khốn khổ cho công nhân nhà máy thành thị. Vào thế kỷ XX, một số chính phủ Cộng sản bề ngoài ủng hộ chủ nghĩa Marx-Lenin và các biến thể của nó đã lên nắm quyền, đầu tiên là ở Liên Xô với Cách mạng Nga năm 1917, và sau đó là ở một số vùng Đông Âu, Châu Á và một số khu vực khác sau Thế chiến II. Là một trong nhiều loại chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đã trở thành khuynh hướng chính trị thống trị, cùng với nền dân chủ xã hội, trong phong trào xã hội chủ nghĩa quốc tế vào đầu những năm 1920.

Trong hầu hết thế kỷ XX, khoảng một phần ba dân số thế giới sống dưới chế độ Cộng sản. Những chính phủ này được đặc trưng bởi chế độ độc đảng do một đảng cộng sản cai trị, từ chối sở hữu tư nhân và chủ nghĩa tư bản, nhà nước kiểm soát hoạt động kinh tế và phương tiện truyền thông đại chúng, hạn chế quyền tự do tôn giáo và đàn áp phe đối lập và bất đồng chính kiến. Với sự giải thể của Liên Xô vào năm 1991, một số chính phủ Cộng sản trước đây đã từ chối hoặc xóa bỏ hoàn toàn chế độ Cộng sản. Sau đó, chỉ còn lại một số ít chính phủ Cộng sản trên danh nghĩa, chẳng hạn như Trung Quốc, Cuba, Lào, Bắc Triều Tiên và Việt Nam. Ngoại trừ Bắc Triều Tiên, tất cả các quốc gia này đã bắt đầu cho phép cạnh tranh kinh tế nhiều hơn trong khi vẫn duy trì chế độ độc đảng. Sự suy tàn của chủ nghĩa cộng sản vào cuối thế kỷ XX được cho là do sự kém hiệu quả cố hữu của nền kinh tế cộng sản và xu hướng chung của các chính phủ cộng sản hướng tới chủ nghĩa độc đoán và quan liêu.

Trong khi sự xuất hiện của Liên Xô với tư cách là quốc gia Cộng sản đầu tiên trên thế giới dẫn đến sự liên kết rộng rãi của chủ nghĩa cộng sản với mô hình kinh tế Xô Viết, một số học giả cho rằng trên thực tế, mô hình này hoạt động như một hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ký ức công chúng về các quốc gia Cộng sản thế kỷ XX đã được mô tả như một chiến trường giữa chống chống cộng sản và chống cộng sản. Nhiều tác giả đã viết về các vụ thảm sát hàng loạt dưới chế độ cộng sản và tỷ lệ tử vong, chẳng hạn như tỷ lệ tử vong quá mức ở Liên Xô dưới thời Joseph Stalin, vẫn là chủ đề gây tranh cãi, phân cực và được tranh luận trong học viện, sử học và chính trị khi thảo luận về chủ nghĩa cộng sản và di sản của các quốc gia Cộng sản.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *