NGÀNH NGHỀ (Profession)

Ngành nghề (profession) là một lĩnh vực công việc đã được chuyên nghiệp hóa thành công. Nó có thể được định nghĩa là một nhóm các cá nhân, chuyên gia có kỷ luật, tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức và tự khẳng định mình và được công chúng chấp nhận là có kiến ​​thức và kỹ năng đặc biệt trong một cơ thể học tập được công nhận rộng rãi bắt nguồn từ nghiên cứu, giáo dục và đào tạo ở trình độ cao và những người sẵn sàng áp dụng kiến ​​thức này và rèn luyện những kỹ năng này vì lợi ích của người khác.

Các ngành nghề chuyên nghiệp được hình thành dựa trên đào tạo giáo dục chuyên biệt, mục đích của nó là cung cấp lời khuyên và dịch vụ khách quan vô tư cho người khác, để được đền bù trực tiếp và rõ ràng, hoàn toàn không mong đợi lợi ích kinh doanh khác. Truyền thống thời trung cổ và đầu hiện đại chỉ công nhận ba nghề: thần học, y họcluật, được gọi là những nghề có học thức. Một nghề không phải là buôn bán hay một ngành công nghiệp.

Một số ngành nghề thay đổi đôi chút về địa vị và quyền lực nhưng uy tín nhìn chung vẫn ổn định theo thời gian, ngay cả khi ngành nghề bắt đầu có yêu cầu học tập và giáo dục chính quy nhiều hơn. Các ngành học được chính thức hóa gần đây hơn, chẳng hạn như kiến ​​trúc, hiện có thời gian nghiên cứu dài tương đương với công việc đặc trưng của nó.

Mặc dù các ngành nghề có thể có địa vị tương đối cao và uy tín trước công chúng, nhưng không phải tất cả các chuyên gia (professional) đều kiếm được mức lương cao và ngay cả trong các ngành nghề cụ thể cũng tồn tại sự khác biệt đáng kể về mức lương. Ví dụ, trong luật, một luật sư bào chữa của công ty làm việc theo giờ có thể kiếm được gấp nhiều lần số tiền mà một công tố viên hoặc luật sư công kiếm được.

Từ nguyên

Thuật ngữ “profession” (ngành nghề) là sự rút ngắn của thuật ngữ “liberal profession” (nghề tự do), đến lượt nó, là một sự Anh hóa của thuật ngữ nghề nghiệp libérale trong tiếng Pháp. Ban đầu được người dùng tiếng Anh mượn vào thế kỷ XIX, nó đã được người dùng quốc tế mượn lại từ cuối thế kỷ XX, mặc dù ý nghĩa sâu xa của thuật ngữ này dường như không tồn tại khi được dịch lại “liberal professions” (nghề nghiệp tự do), theo Chỉ thị của Liên minh Châu Âu về Công nhận Trình độ Chuyên môn (2005/36/EC) là, “những người được thực hành trên cơ sở các trình độ chuyên môn liên quan với năng lực cá nhân, có trách nhiệm và độc lập về mặt chuyên môn bởi những người cung cấp dịch vụ trí tuệ và khái niệm trong sự quan tâm của khách hàng và công chúng”. Theo Ủy ban Châu Âu, nghề tự do là những nghề đòi hỏi đào tạo chuyên môn và được quản lý bởi “chính phủ quốc gia hoặc cơ quan chuyên môn”.

Sự hình thành

Một ngành nghề phát sinh thông qua quá trình chuyên nghiệp hóa khi bất kỳ hoạt động buôn bán hoặc nghề nghiệp nào cũng tự chuyển hóa: “… [thông qua] sự phát triển các bằng cấp chính thức dựa trên giáo dục, học nghề và kiểm tra, sự xuất hiện của các cơ quan quản lý có quyền thừa nhận và kỷ luật thành viên, và một số mức độ độc quyền”.

Các cột mốc quan trọng có thể đánh dấu một nghề được xác định là một nghề bao gồm:
1. Trở thành một nghề nghiệp toàn thời gian.
2. Thành lập trường đào tạo.
3. Thành lập trường đại học.
4. Thành lập hiệp hội địa phương.
5. Thành lập hiệp hội đạo đức nghề nghiệp quốc gia.
6. Ban hành luật cấp phép của nhà nước.

Áp dụng những cột mốc quan trọng này vào trình tự phát triển lịch sử ở Hoa Kỳ cho thấy nghề khảo sát đạt được vị thế chuyên nghiệp trước tiên (George Washington, Thomas Jefferson và Abraham Lincoln đều làm công việc khảo sát đất đai trước khi tham gia chính trị), tiếp theo là y học, khoa học tính toán, luật, nha khoa, xây dựng dân dụng, hậu cần, kiến ​​trúckế toán.

Với sự phát triển của công nghệ và chuyên môn hóa nghề nghiệp vào thế kỷ XIX, các cơ quan khác bắt đầu khẳng định vị thế chuyên môn: cơ khí, dược, thú y, tâm lý học, điều dưỡng, giảng dạy, thủ thư, đo thị lựccông tác xã hội, mỗi cơ quan đều có thể yêu cầu bằng cách sử dụng những điều này, cột mốc quan trọng để trở thành nghề nghiệp vào năm 1900.

Quy định

Các tổ chức quản lý thường chịu trách nhiệm giám sát một ngành xác định. Thông thường họ sẽ có hai nhiệm vụ chung:
1. Xây dựng, rà soát và sửa đổi các tiêu chuẩn mong đợi của các cá nhân, tổ chức trong ngành.
2. Can thiệp khi có lý do hợp lý để nghi ngờ rằng một cá nhân hoặc tổ chức được quản lý có thể không tuân thủ nghĩa vụ của mình.

Ban đầu, bất kỳ quy định nào về ngành nghề đều được tự điều chỉnh thông qua các cơ quan như Trường Cao đẳng Bác sĩ (College of Physicians) hoặc Lữ quán Tòa (Inns of Court). Với vai trò ngày càng tăng của chính phủ, các cơ quan theo luật định ngày càng đảm nhận vai trò này, các thành viên của họ được bổ nhiệm bởi chuyên gia hoặc (ngày càng) bởi chính phủ. Các đề xuất về việc đưa ra hoặc tăng cường quy định theo luật định có thể được giới chuyên môn hoan nghênh vì bảo vệ khách hàng, nâng cao chất lượng và danh tiếng của họ, hoặc hạn chế khả năng tiếp cận nghề nghiệp và do đó cho phép tính phí cao hơn. Nó có thể bị phản đối vì hạn chế quyền tự do đổi mới hoặc thực hành của các thành viên theo đánh giá chuyên môn mà họ cho là tốt nhất.

Một ví dụ là vào năm 2008, khi chính phủ Anh đề xuất quy định pháp lý rộng rãi đối với các nhà tâm lý học. Nguồn cảm hứng cho sự thay đổi là một số vấn đề trong lĩnh vực tâm lý trị liệu, nhưng có nhiều loại nhà tâm lý học khác nhau, trong đó có nhiều người không có vai trò lâm sàng và trường hợp điều chỉnh không quá rõ ràng. Tâm lý học công việc gây ra sự bất đồng đặc biệt, với Hiệp hội Tâm lý học Anh ủng hộ quy định theo luật định về “các nhà tâm lý học nghề nghiệp” và Hiệp hội các nhà tâm lý học kinh doanh phản đối các quy định theo luật định về “các nhà tâm lý học kinh doanh” – những mô tả về hoạt động nghề nghiệp mà có thể không dễ phân biệt.

Bên cạnh việc quản lý việc tiếp cận nghề nghiệp, các cơ quan chuyên môn có thể tổ chức các kỳ thi về năng lực và buộc phải tuân thủ các quy tắc đạo đức. Có thể có một số cơ quan như vậy cho một ngành nghề ở một quốc gia, ví dụ như các cơ quan kế toán của Vương quốc Anh (ACCA, CAI, CIMA, CIPFA, ICAEW và ICAS), tất cả đều được cấp Hiến chương Hoàng gia, mặc dù các thành viên không nhất thiết được coi là có trình độ chuyên môn tương đương và hoạt động cùng với các cơ quan khác (AAPA, IFA, CPAA). Một ví dụ khác về cơ quan quản lý quản lý một nghề là Liên đoàn giáo viên chuyên nghiệp Hồng Kông, cơ quan quản lý hành vi, quyền, nghĩa vụ và nghĩa vụ của giáo viên được trả lương làm việc trong các cơ sở giáo dục ở Hồng Kông.

Nghề kỹ thuật được quản lý chặt chẽ ở một số quốc gia (Canada và Hoa Kỳ) với hệ thống cấp phép nghiêm ngặt dành cho Kỹ sư chuyên nghiệp kiểm soát hành nghề nhưng ở những quốc gia khác (Anh) thì không, nơi các chức danh và bằng cấp được quy định là Kỹ sư được cấp phép nhưng hành nghề không được quy định.

Thông thường, pháp luật yêu cầu các cá nhân phải có trình độ chuyên môn của cơ quan chuyên môn địa phương trước khi họ được phép hành nghề đó. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, luật pháp có thể không yêu cầu các cá nhân phải có trình độ chuyên môn của cơ quan chuyên môn đó để hành nghề, như trường hợp kế toán ở Vương quốc Anh (ngoại trừ công việc kiểm toán và phá sản mà pháp luật yêu cầu phải có trình độ chuyên môn của chuyên gia). Trong những trường hợp như vậy, trình độ chuyên môn của các cơ quan chuyên môn vẫn được coi là điều kiện tiên quyết để hành nghề vì hầu hết người sử dụng lao động và khách hàng đều quy định rằng cá nhân phải có trình độ chuyên môn đó trước khi thuê dịch vụ của họ. Ví dụ: để trở thành một chuyên gia giảng dạy có trình độ đầy đủ ở Hồng Kông, làm việc trong một trường do tiểu bang hoặc chính phủ tài trợ, một người cần phải hoàn thành thành công Chứng chỉ Giáo dục Sau đại học PGDE (Postgraduate Diploma in Education) hoặc bằng cử nhân Giáo dục BEd (bachelor’s degree in Education) tại cơ sở giáo dục đại học hoặc trường đại học được phê duyệt. Yêu cầu này được đặt ra bởi Cục Giáo dục Hồng Kông, cơ quan chính phủ quản lý ngành giáo dục Hồng Kông.

Quyền tự trị

Các ngành nghề có xu hướng tự chủ, có nghĩa là họ có mức độ kiểm soát cao đối với công việc của mình: “các chuyên gia có tính tự chủ trong chừng mực họ có thể đưa ra những đánh giá độc lập về công việc của mình”. Điều này thường có nghĩa là “quyền tự do thực hiện phán đoán chuyên môn của mình”.

Tuy nhiên, nó cũng có ý nghĩa khác. “Quyền tự chủ nghề nghiệp (professional autonomy) thường được mô tả như một yêu cầu của các chuyên gia phải phục vụ chủ yếu cho lợi ích riêng của họ… quyền tự chủ nghề nghiệp này chỉ có thể được duy trì nếu các thành viên trong nghề đưa ra các hoạt động và quyết định của họ trước sự đánh giá quan trọng của các thành viên khác trong nghề”. Do đó, khái niệm về quyền tự chủ có thể được coi là không chỉ bao hàm sự phán xét mà còn bao gồm cả lợi ích cá nhân và một quá trình đánh giá liên tục có tính phê phán về đạo đức và thủ tục ngay từ bên trong nghề nghiệp.

Một ý nghĩa chính của quyền tự chủ nghề nghiệp là lệnh cấm truyền thống đối với việc doanh nghiệp hành nghề trong các ngành nghề, đặc biệt là kế toán, kiến ​​trúc, kỹ thuật, y học và luật. Điều này có nghĩa là ở nhiều khu vực pháp lý, những chuyên gia này không thể kinh doanh thông qua các tập đoàn vì lợi nhuận thông thường và huy động vốn nhanh chóng thông qua phát hành lần đầu ra công chúng hoặc phát hành cổ phiếu. Thay vào đó, nếu họ muốn hành nghề tập thể, họ phải thành lập các thực thể kinh doanh đặc biệt như công ty hợp danh hoặc công ty chuyên nghiệp, có đặc điểm:

(1) giảm mức bảo vệ khỏi trách nhiệm pháp lý đối với sự sơ suất nghề nghiệp, và

(2) những hạn chế nghiêm trọng hoặc cấm hoàn toàn quyền sở hữu của những người không chuyên nghiệp.

Ý nghĩa rõ ràng của điều này là tất cả chủ sở hữu vốn của tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp đều phải là những chuyên gia. Điều này tránh khả năng một chủ sở hữu không chuyên nghiệp của công ty chỉ đạo một chuyên gia cách thực hiện công việc của mình và do đó bảo vệ quyền tự chủ nghề nghiệp. Ý tưởng là người không chuyên nghiệp duy nhất nên nói cho chuyên gia biết phải làm gì là khách hàng; nói cách khác, quyền tự chủ nghề nghiệp duy trì tính toàn vẹn của mối quan hệ chuyên nghiệp-khách hàng giữa hai bên. Ngoài mối quan hệ khách hàng-nghề nghiệp này, nghề đòi hỏi người chuyên nghiệp phải sử dụng quyền tự chủ của mình để tuân theo các quy tắc đạo đức mà nghề nghiệp yêu cầu. Nhưng vì các thực thể kinh doanh chuyên nghiệp bị loại khỏi thị trường chứng khoán một cách hiệu quả nên chúng có xu hướng tăng trưởng tương đối chậm so với các công ty đại chúng.

Địa vị, uy tín và quyền lực

Nghề nghiệp thường có địa vị xã hội cao, được xã hội coi là rất quan trọng. Sự đánh giá cao này chủ yếu xuất phát từ chức năng xã hội cao hơn trong công việc của họ. Nghề nghiệp điển hình bao gồm công việc kỹ thuật, chuyên môn và tay nghề cao. Kỹ năng và kinh nghiệm này thường được gọi là “professional expertise” (nghề nghiệp chuyên môn). Trong thời kỳ hiện đại, đào tạo một nghề bao gồm việc lấy bằng cấp và chứng chỉ. Thông thường, việc vào nghề bị cấm nếu không có giấy phép. Học các kỹ năng mới cần thiết khi nghề nghiệp phát triển được gọi là giáo dục thường xuyên (continuing education). Tiêu chuẩn được đặt ra bởi các tiểu bang và hiệp hội. Các chuyên gia hàng đầu có xu hướng giám sát và bảo vệ lĩnh vực chuyên môn của họ và giám sát hành vi của các chuyên gia đồng nghiệp của họ thông qua các hiệp hội, cấp quốc gia hoặc các tổ chức khác. Các chuyên gia thường có ảnh hưởng vượt trội đối với các ngành nghề liên quan, thiết lập các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Các chuyên gia có quyền lực xã hội củng cố quyền lực của họ trong các tổ chức vì các mục tiêu cụ thể. Làm việc cùng nhau, họ có thể giảm bớt những vướng mắc quan liêu và tăng khả năng thích ứng của nghề nghiệp với những điều kiện đang thay đổi của thế giới.

Xã hội học

Émile Durkheim lập luận rằng các nghề nghiệp đã tạo ra một xã hội ổn định bằng cách cung cấp một cơ cấu tách biệt với nhà nước và quân đội, ít có khuynh hướng tạo ra chủ nghĩa độc tài hoặc vô tổ chức và có thể tạo ra lòng vị tha cũng như khuyến khích trách nhiệm xã hội và lòng vị tha. Quan điểm chức năng luận này được mở rộng bởi Parsons, người đã xem xét chức năng của một nghề nghiệp có thể thay đổi như thế nào để đáp ứng với những thay đổi trong xã hội.

Esther Lucile Brown, một nhà nhân chủng học, đã nghiên cứu nhiều ngành nghề khác nhau bắt đầu từ những năm 1930 khi làm việc với Ralph Hurlin tại Quỹ Russell Sage. Bà đã xuất bản Công tác xã hội như một nghề (Social Work as a Profession) vào năm 1935, và sau ấn phẩm này nghiên cứu công việc của các kỹ sư, y tá, bác sĩ y khoa và luật sư. Năm 1944, Khoa Nghiên cứu Nghề nghiệp được thành lập tại Quỹ Russell Sage với Brown là người đứng đầu.

Các lý thuyết dựa trên các lý thuyết xung đột theo Marx và Weber xem xét cách các ngành nghề có thể hành động vì lợi ích của nhóm mình để đảm bảo lợi ích xã hội và tài chính đã được Johnson tán thành (Professions and Powers, tạm dịch – Nghề nghiệp và quyền hạn, 1972) và Larson (The Rise of Professionalism, tạm dịch – Sự trỗi dậy của tính chuyên nghiệp, 1977). Một cách mà một nghề có thể thu được lợi ích tài chính là hạn chế việc cung cấp dịch vụ.

Các lý thuyết dựa trên diễn ngôn, theo Mead và áp dụng các ý tưởng của Sartre và Heidegger xem xét sự hiểu biết của cá nhân về thực tế ảnh hưởng như thế nào đến vai trò của nghề nghiệp. Những quan điểm này đã được Berger và Luckmann tán thành (The Social Construction of Reality, tạm dịch – Xây dựng xã hội của hiện thực, 1966).

Hệ thống ngành nghề

Andrew Abbott đã xây dựng một mô hình xã hội học về nghề nghiệp trong cuốn sách Hệ thống nghề nghiệp của mình. Abbott coi các ngành nghề có thẩm quyền đối với quyền thực hiện các nhiệm vụ thuộc các quyền sở hữu khác nhau nhằm giành quyền kiểm soát thẩm quyền đối với các nhiệm vụ.

Một nghề thường sở hữu một hệ thống kiến ​​thức chuyên môn khác biệt với chính nghề đó. Hệ thống trừu tượng này thường không được sử dụng trực tiếp trong thực tế mà được tối ưu hóa để đảm bảo tính nhất quán và hợp lý về mặt logic, đồng thời ở một mức độ nào đó có tác dụng nâng cao vị thế của toàn bộ ngành nghề. Một ngành nghề có thể tìm cách kiểm soát thẩm quyền của ngành nghề khác bằng cách thách thức nó ở cấp độ học thuật này. Abbott lập luận rằng vào những năm 1920, ngành tâm thần học đã cố gắng thách thức ngành luật trong việc kiểm soát phản ứng của xã hội đối với hành vi tội phạm. Abbott lập luận rằng việc chính thức hóa một ngành nghề thường khiến cho một khu vực pháp lý trở nên dễ dàng hoặc khó bảo vệ hơn trước các khu vực pháp lý khác: các nguyên tắc chung khiến các ngành nghề khác khó giành được quyền tài phán đối với một lĩnh vực, ranh giới rõ ràng ngăn chặn sự xâm lấn, ranh giới mờ nhạt giúp một ngành nghề dễ dàng hơn đảm trách các nhiệm vụ khác.

Các ngành nghề có thể mở rộng quyền tài phán của mình bằng các phương tiện khác. Đưa giáo dục về phía các ngành nghề như một phần nỗ lực mở rộng quyền tài phán bằng cách áp đặt một sự hiểu biết cụ thể về thế giới (một trong đó nghề có chuyên môn). Ông gọi loại thẩm quyền này là thẩm quyền công cộng. Quyền tài phán pháp lý là sự độc quyền do luật pháp tiểu bang tạo ra, như được áp dụng cho luật pháp ở nhiều quốc gia.

Đặc trưng

Có sự nhất trí đáng kể về việc xác định các đặc điểm đặc trưng của một nghề nghiệp. Họ có một “hiệp hội nghề nghiệp, cơ sở nhận thức, đào tạo được thể chế hóa, cấp phép, tự chủ trong công việc, kiểm soát đồng nghiệp… (và) quy tắc đạo đức”, sau đó Larson cũng nói thêm, “các tiêu chuẩn cao về sự xuất sắc về chuyên môn và trí tuệ” (Larson, trang 221) rằng “nghề nghiệp là những nghề có quyền lực và uy tín đặc biệt”, (Larson, px) và chúng bao gồm “một nhóm ưu tú độc quyền” (Larson, trang 20) trong mọi xã hội. Các thành viên của một nghề nghiệp cũng được định nghĩa là “những người lao động có phẩm chất tách rời, tự chủ và trung thành với nhóm sâu rộng hơn những phẩm chất được tìm thấy trong các nhóm khác… các thuộc tính của họ bao gồm mức độ kiến ​​thức có hệ thống cao; định hướng cộng đồng mạnh mẽ và lòng trung thành; bản thân” – quy định; và một hệ thống khen thưởng được xác định và quản lý bởi cộng đồng người lao động”.

Một nghề đã được định nghĩa sâu hơn là: “một loại nghề nghiệp đặc biệt… (có) sự đoàn kết trong doanh nghiệp… đào tạo chuyên môn kéo dài trong một khối kiến ​​thức trừu tượng, và định hướng tập thể hoặc dịch vụ… một tiểu văn hóa nghề nghiệp mà bao gồm các quy tắc ứng xử ngầm, tạo ra tinh thần đồng đội giữa các thành viên cùng nghề và đảm bảo cho họ những lợi thế nghề nghiệp nhất định… (cũng) các cơ cấu quan liêu và các đặc quyền độc quyền để thực hiện một số loại công việc nhất định… văn học chuyên môn, luật pháp…”.

Một đặc điểm quan trọng của nghề nghiệp là nhu cầu trau dồi và thực hiện quyền quyết định nghề nghiệp – nghĩa là khả năng đưa ra những phán đoán theo từng trường hợp không thể được xác định bằng một quy tắc hoặc hướng dẫn tuyệt đối./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *