Tổng quan:
– Lịch sử xây dựng: 1967-1990
– Lịch sử phục vụ; 1967-nay
– Đã hoàn thành: 114
– Mất: 1
– Kiểu loại: tàu tuần tra
– Lượng giãn nước: 172 tấn (tiêu chuẩn), 245 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 37,5 m
– Chiều dai: 7,64 m
– Mớn nước: 3,8 m
– Động lực đẩy: 3 x động cơ diesel M504 B2; 12.500 mã lực (9.300 kW)
– Tốc độ: 38 hl/g (70 km/h)
– Phạm vi hoạt động: 500 hl (930 km) ở tốc độ 35 hl/g (65 km/h)
– Quân số: 32/34
– Khí tài:
+ Radar Pot Drum
+ Sonar Bronza (gắn thân tàu, tần số cao)
– Vũ khí
+ 2 x 30 mm/65 AK-230
+ 1 x 12,7 mm
+ 4 x ống phóng ngư lôi chống ngầm 400 mm
+ 2 giá phóng lượng nổ ngầm (12 quả).
Lớp Stenka là tên ký hiệu của NATO cho một lớp tàu tuần tra được chế tạo cho Hải quân Liên Xô và Đồng minh Liên Xô. Tên định danh của Liên Xô là Project 205P Tarantul (đừng nhầm với tàu hộ vệ lớp Tarantul). Các tàu này là phiên bản tàu tuần tra chống ngầm (ASW) của tàu tên lửa lớp Osa.
Thiết kế
Project 205P Stenka là một biến thể của tàu tên lửa lớp Osa Project 205. Tàu Stenkas sử dụng thân tàu của lớp Osa và có thủy thủ đoàn đông hơn một chút. Văn phòng phát triển của Nhà máy đóng tàu Almaz ở Leningrad đã sử dụng các bộ phận tiêu chuẩn của lớp Osa để phát triển tàu tác chiến chống ngầm (ASW). Các ống phóng tên lửa chống hạm được thay thế bằng 4 ống phóng ngư lôi nhưng các cấu trúc và thiết bị liên quan đến tên lửa chống hạm vẫn được giữ lại. Các không gian sinh hoạt trên lớp Stenkas đã được cải thiện để có khả năng tuần tra lâu dài bằng cách nâng cao cấu trúc thượng tầng nhằm tạo ra nhiều không gian hữu ích hơn bên trong so với lớp Osa. Chúng cũng được lắp đặt một máy điều hòa không khí mạnh hơn.
Hệ thống truyền động là ba động cơ diesel hướng tâm loại M504 B2 có tổng công suất 15.000 mã lực (11.000 kW).
Vũ khí
Vũ khí ASW chính để chống tàu ngầm là ngư lôi SET-40. Các tàu này có bốn ống phóng ngư lôi 406 mm được lắp trên boong ở phần phía sau của, hai ống ở mạn trái và hai ống ở mạn phải.
Phía sau các ống phóng ngư lôi trên boong phía sau, ở mạn trái và mạn phải, mỗi bên là một bệ phóng lượng nổ ngầm Abrollgestell. Có thể mang theo 12 quả (6 quả cho mỗi bệ phóng).
Là những chiếc tàu thuộc lớp Project 205 Osa, những chiếc Project 205P Stenka có 2 khẩu AK-230 30 mm điều khiển bằng radar trên giá đôi, một ở mũi tàu, một ở phía sau.
Một trong những chiếc tàu đã được thử nghiệm với AK-725 57 mm ở mũi tàu và nhận được mã số dự án sửa đổi – 205PE.
Khí tài
Radar tìm kiếm trên không và trên mặt đất của dự án 205P là NATO “Pot Drum” MR-102 hoặc NATO “Peel Cone” “thụ động” – Radar được lắp trên cột tàu, với hai ăng-ten cho nhận dạng bạn – thù “High Pole B”. Radar MR-104 loại “Drum Tilt” của NATO được gắn ở phía sau cấu trúc thượng tầng để điều khiển hỏa lực của hai khẩu AK-230. Các tàu này được trang bị hệ thống tìm kiếm tàu ngầm MG-345 “Bronza”, bao gồm sonar tàu ngầm Project 133.1 MG-329 “Sheksna” với cảm biến sonar MG-11 “Tamir-11” được tích hợp trong thân tàu.
Tàu thuyền
Hải quân Liên Xô
Tổng cộng có 114 hoặc 117 chiếc (có nhiều nguồn khác nhau) được đóng từ năm 1967 đến năm 1990. Chúng được Bộ đội Biên phòng Hàng hải vận hành.
Liên Xô xếp các tàu của lực lượng biên phòng của họ là “tàu biên phòng” (tiếng Nga Пограничные сторожевые корабли, viết tắt – ПСКР) và 5 chiếc trong Hải quân là tàu pháo (tiếng Nga артиллерийский катер). Việc phân bổ tương tự các tàu để tuần tra tàu ngầm được giao cho lực lượng biên phòng, điều này khá bất thường ở các nước NATO, và do đó, áp dụng nhận dạng tàu tuần tra Project 205P.
Hải quân Nga – Khoảng 19 tàu còn tồn tại được điều hành bởi Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nga.
Hải quân Azerbaijan – 5 tàu.
Hải quân Ukraine – khoảng 10 chiếc (có thể được điều hành bởi Lực lượng Bảo vệ Biển Ukraina).
Hải quân Gruzia – 2 chiếc (1 – “Batumi” bị tháo dỡ năm 2006, một chiếc khác – Giorgi Toreli bị đánh chìm trong trận chiến ngoài khơi bờ biển Abkhazia).
Xuất khẩu
Hải quân Cuba – 4 tàu xuất khẩu năm 1985
Campuchia – 5 tàu được chuyển giao 1985-1987. Được trang bị hai khẩu pháo Bofors L/60 40mm phía trước và ZU-23-2 phía sau, thay thế cho tháp pháo AK-230. Ống phóng ngư lôi được tháo ra./.