Tổng quan:
– Vai trò: Máy bay chiến đấu đa năng
– Xuất xứ: Hoa Kỳ
– Nhà chế tạo: McDonnell Douglas (1974-1997); với Northrop (1974-1994); Boeing (1997-2000)
– Chuyến bay đầu tiên: ngày 18/11/1978
– Giới thiệu: 7/1/1983 (USMC); 01/7/1984 (USN)
– Đã nghỉ hưu: 2019 (Hornet, USN); 2021 (RAAF)
– Trạng thái: Đang phục vụ
– Nhà dùng chính: Hải quân Hoa Kỳ (lịch sử); Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ; Lực lượng Không quân Phần Lan; Lực lượng Không quân và Vũ trụ Tây Ban Nha
– Lịch sử sản xuất: 1974-2000
– Số lượng đã sản xuất: 1.480 (F/A-18A/B/C/D)
– Lớp trước: Northrop YF-17
– Biến thể: McDonnell Douglas CF-18 Hornet; High Alpha Research Vehicle
– Lớp sau: Boeing F/A-18E/F Super Hornet; Máy bay cánh khí động chủ động Boeing X-53
– Phi hành đoàn: 1 (C)/2 (D – phi công (sĩ quan ) và điều khiển vũ khí)
– Chiều dài: 17,1 m
– Sải cánh: 12,3 m với AIM-9 Sidewinder trên bệ phóng LAU-7 ở đầu cánh
– Chiều rộng: 8,4 m (khi gập cánh)
– Chiều cao: 4,7 m
– Diện tích cánh: 38 m2
– Tỷ lệ khung: 4
– Cánh máy bay: root: mod NACA 65A005.; tip: mod NACA 65A003.5
– Trọng lượng rỗng: 10.433 kg
– Tổng trọng lượng: 16.769 kg
– Trọng lượng cất cánh tối đa: 23.541 kg
– Dung tích nhiên liệu: 4.930 kg (bên trong)
– Động cơ: 2 x động cơ phản lực cánh quạt đốt sau General Electric F404-GE-402 , lực đẩy 11.000 lbf (49 kN) mỗi lần khô, lực đẩy 17.750 lbf (79,0 kN) với bộ đốt sau
– Tốc độ tối đa (ở độ cao 12.000 m): 1.034 hl/g (1.915 km/h)
– Tốc độ tối đa: Mach 1.8
– Tốc độ hành trình: 570 hl/g (1.060 km/h)
– Tầm bay: 1.089 hl (2.017 km)
– Phạm vi chiến đấu: 400 hl (740 km) nhiệm vụ trên không
– Phạm vi phà: 1.800 hl (3.300 km)
– Trần dịch vụ: 15.000 m
– Tốc độ leo: 250 m/s
– Tải trọng cánh: 450 kg/m2
– Lực đẩy/trọng lượng: 0,96 (1,13 với trọng lượng có tải ở mức 50% nhiên liệu bên trong)
– Vũ khí
+ 1 x pháo xoay 6 nòng M61A1 20 mm M61A1 gắn trên mũi Vulcan, 578 viên đạn
+ Giá treo: tổng cộng 9: 2 x ray phóng tên lửa ở đầu cánh, 4 x dưới cánh và 3 x dưới thân máy bay với sức chứa 13.700 lb (6.200 kg) nhiên liệu bên ngoài và vật liệu nổ, với khả năng mang theo tổ hợp: Tên lửa Hydra 70 mm; tên lửa Zuni 127,0 mm; 2 x AIM-9 Sidewinder trên đầu cánh và 8 x AIM-9 Sidewinder (có giá đỡ đôi) hoặc 4 x AIM-132 ASRAAM hoặc 4 x IRIS-T (EF-18A/B) hoặc 8 x AIM-120 AMRAAM (có giá đỡ đôi) và 2 x AIM-7 Sparrow hoặc 2 x AIM-120 AMRAAM; 4 x AGM-65 Maverick; AGM-84H/K (SLAM-ER); AGM-88 HARM (ARM); 4 x Vũ khí dự phòng chung AGM-154 (JSOW); AGM-158 (JASSM); Taurus KEPD 350; Harpoon AGM-84; Bom hạt nhân B83, B61; Đạn tấn công trực tiếp chung Đạn dẫn đường chính xác JDAM (PGM); loạt bom dẫn đường bằng laser của Paveway; dòng bom không điều khiển Mk 80; CBU-78 Gator; đạn hiệu ứng kết hợp CBU-87; vũ khí có cảm biến CBU-97; Mk 20 Rockeye II; bom cháy Mk 77…
– Khí tài khác:
+ ADM-141 TALD
+ SUU-42A/A Pháo sáng/ Bộ phân phối mồi nhử hồng ngoại và vỏ gây nhiễu hoặc
+ Các biện pháp đối phó điện tử (ECM) hoặc Các thiết bị nhắm mục tiêu AN/AAS-38 Nite Hawk (chỉ dành cho Hải quân Hoa Kỳ), hiện đang được thay thế bằng AN/ASQ-228 ATFLIR hoặc
+ Nhóm nhắm mục tiêu LITENING (chỉ USMC, Không quân Hoàng gia Úc, Lực lượng Không quân và Vũ trụ Tây Ban Nha và chỉ Lực lượng Không quân Phần Lan) hoặc lên tới 3 x 330 US gallon (270 imp gal; 1.200 L) thùng thả Sargent Fletcher FPU-8/A dành cho chuyến bay phà hoặc phạm vi mở rộng/thời gian lảng vảng.
– Hệ thống điện tử hàng không:
+ Radar Hughes APG-73
+ Máy thu cảnh báo radar ALR-67
+ Ăng- ten ROVER (Bộ thu nâng cao video được điều khiển từ xa) để các phi đội máy bay chiến đấu tấn công F/A-18C của Hải quân Hoa Kỳ sử dụng.
McDonnell Douglas F/A-18 Hornet là một loại máy bay chiến đấu đa năng, siêu âm, hai động cơ, có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, được thiết kế vừa là máy bay chiến đấu vừa là máy bay tấn công (do đó được đặt tên là F/A). Được thiết kế bởi McDonnell Douglas và Northrop, F/A-18 được phát triển từ YF-17 của Northrop vào những năm 1970 để sử dụng cho Hải quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Hornet cũng được sử dụng bởi lực lượng không quân của một số quốc gia khác, và trước đây là Phi đội Trình diễn Chuyến bay của Hải quân Hoa Kỳ, Blue Angels.
F/A-18 được thiết kế để trở thành một máy bay có tính linh hoạt cao nhờ hệ thống điện tử hàng không, màn hình hiển thị trong buồng lái và các đặc tính khí động học tuyệt vời, cùng khả năng mang nhiều loại vũ khí. Máy bay có thể thực hiện các nhiệm vụ hộ tống tiêm kích, phòng không cho hạm đội, trấn áp hệ thống phòng không của đối phương, ngăn chặn trên không, yểm trợ tầm gần và trinh sát trên không. Tính linh hoạt và độ tin cậy của nó đã chứng minh nó là một tài sản có giá trị của tàu sân bay, mặc dù nó đã bị nhiều chuyên gia hàng không Hải quân chỉ trích vì thiếu tầm hoạt động và tải trọng so với các máy bay cùng thời trước đó, chẳng hạn như Grumman F-14 Tomcat trong vai trò tiêm kích và tiêm kích tấn công, và Grumman A-6 Intruder và LTV A-7 Corsair II trong vai trò tấn công.
Hornet lần đầu tham gia chiến đấu trong vụ Mỹ ném bom Libya năm 1986 và sau đó tham gia Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và Chiến tranh Iraq năm 2003. F/A-18 Hornet đóng vai trò là cơ sở cho Boeing F/A-18E/F Super Hornet, thiết kế lại mang tính tiến hóa, lớn hơn của nó, thay thế cả Hornet cũ hơn và F-14 Tomcat trong Hải quân Hoa Kỳ…