TÀU QUÉT MÌN LỚP Avenger

Tổng quan:
– Nhà xây dựng: Công ty đóng tàu Peterson; Marinette Marine
– Lớp trước: tàu quét mìn lớp Ability
– Lớp sau: tàu tác chiến ven bờ (LCS, gồm Freedom Independence)
– Trong biên chế: 1987
– Hoàn thành: 14
– Hoạt động: 8
– Mất: 1
– Nghỉ hưu: 5
– Kiểu loại: tàu quét mìn
– Lượng giãn nước: 1.312 tấn
– Chiều dài: 68 m
– Độ rộng: 12 m
– Mớn nước: 4,6 m
– Lực đẩy:
+ Động cơ Diesel 4 × Waukesha (hai tàu đầu tiên) hoặc động cơ Diesel 4 × Isotta-Fraschini (600 mã lực (450 kW))
+ Động cơ đẩy điện 2 × 200 hp (150 kW)
+ 2 × trục với chân vịt biến bước
+ 1 × 350 mã lực (260 kW) Máy đẩy cánh cung phun nước Omnithruster
– Tốc độ: 14 hl/g (26 km/h)
– Quân số: 8 sĩ quan, 76 người nhập ngũ
– Vũ khí:
+ Hệ thống vô hiệu hóa mìn
+ 4 × 50 mm.

Tàu quét mìn lớp Avenger là một lớp gồm 14 tàu được đóng cho Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1987 đến năm 1994, được thiết kế để rà phá mìn từ các tuyến đường thủy quan trọng. Các tàu có thiết bị định danh thân tàu MCM (mine countermeasures).

Các tàu lớp Avenger đang được thay thế bằng các tàu tác chiến ven bờ lớp FreedomIndependence, cũng như các nền tảng MCM khác, sử dụng nhiều phương tiện không người lái, trên mặt nước và dưới đáy biển để phát hiện và phá hủy thủy lôi ở khoảng cách xa.

Vào đầu những năm 1980, Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu phát triển lực lượng chống mìn mới MCM, bao gồm 2 lớp tàu mới và trực thăng quét mìn. Tầm quan trọng sống còn của một lực lượng đối phó với bom mìn hiện đại đã được nhấn mạnh ở Vịnh Ba Tư trong suốt 8 năm Chiến tranh Iran-Iraq, và trong Chiến dịch Lá chắn sa mạc và Bão táp sa mạc vào năm 1990 và 1991 khi Avenger và Guardian tiến hành Các hoạt động MCM.

Các tàu lớp Avenger được thiết kế như những kẻ săn mìn có khả năng tìm, phân loại và phá hủy các mìn neo và đáy. 3 tàu MCM cuối cùng được mua vào năm 1990, nâng tổng số lên 14 tàu lớp Avenger có thể triển khai hoàn toàn trên đại dương. Các tàu này sử dụng hệ thống sonar và video, máy cắt cáp và thiết bị kích nổ mìn có thể được thả và kích nổ bằng điều khiển từ xa. Chúng cũng có khả năng thực hiện các biện pháp quét thông thường.

Tính đến năm 2012, 8 đội Avengers đã hoạt động ở tiền tuyến: 4 ở Sasebo, Nhật Bản với các thủy thủ đoàn thường trực, và 4 ở Manama, Bahrain, với 10 tàu đang triển khai luân phiên. Vào tháng 3/2012, USN đã công bố kế hoạch triển khai 4 MCM khác tới Bahrain để chống lại các mối đe dọa tiềm tàng của Iran nhằm khai thác Eo biển Hormuz phản ánh căng thẳng ngày càng tăng giữa Hoa Kỳ và Iran về chương trình hạt nhân của nước này.

Vỏ của các tàu lớp Avenger được đóng bằng gỗ với lớp sợi thủy tinh phủ bên ngoài. Gỗ được sử dụng là sồi, linh sam Douglas và Nootka Cypress vì tính linh hoạt, chịu lực và trọng lượng thấp. Kết cấu này cho phép thân tàu có thể chịu được một vụ nổ mìn ở gần, đồng thời mang lại cho tàu một tín hiệu từ tính thấp.

Các tàu sử dụng hệ thống xử lý bom mìn điều hành từ xa AN/SLQ-48 do Alliant Techsystems (ATK) cung cấp và hệ thống trung hòa bom mìn trên phương tiện điều khiển từ xa ROV (remotely operated vehicle) EX116 Mod 0 do ATK và Raytheon cung cấp. AN/SLQ-48 phát hiện, xác định vị trí, phân loại và vô hiệu hóa các loại mìn neo và mín đáy. Phương tiện này sử dụng sóng siêu âm tần số cao, độ phân giải cao, truyền hình mức ánh sáng yếu LLLTV (low light level television), máy cắt cáp và chất nổ để phát hiện và xử lý bom mìn, trong khi được buộc vào tàu bằng cáp dài 1.070 m trở xuống kiểm soát của tàu.

ATK/Raytheon ROV là một hệ thống tương tự, nhưng có cáp tether dài 1.500 m và cũng mang theo máy cắt cáp để xử lý các loại mìn có dây buộc hoặc neo, và chất nổ để kích nổ mìn.

Các tàu sử dụng sonar dò tìm và phân loại tiên tiến AN/SQQ-32 của Raytheon và Thales Underwater Systems (trước đây là Thomson Marconi Sonar). Hệ thống có 2 sonar được lắp trong một vỏ chìm nhỏ được kéo dưới tàu. Khi không triển khai, tàu lặn được đặt trong thùng bên dưới boong tàu. Các sonar là 1 sonar tìm kiếm và phát hiện Raytheon và 1 sonar phân loại mục tiêu, tần số cao, có độ phân giải cao của Thales. Hệ thống triển khai và truy xuất cho tàu lặn được thiết kế bởi Phòng thí nghiệm Charles Stark Draper ở Massachusetts.

Lớp Avenger sử dụng radar dẫn đường và tìm kiếm bề mặt AN/SPS-55 do Cardion, Inc. của New York cung cấp. Các tàu đã được trang bị radar dẫn đường CMC Electronics LN66 hoặc Raytheon AN/SPS-66, nhưng dự kiến ​​sẽ được nâng cấp với AN/SPS-73.

Các tàu lớp Avenger được trang bị 4 động cơ diesel Waukesha-Pearce (MCM 1 và 2) hoặc động cơ diesel Isotta-Fraschini ID 36SS6V (còn lại), được thiết kế để có từ tính và âm thanh rất thấp. Mỗi động cơ phát triển công suất duy trì 600 mã lực (447,4 kW) (kết hợp 1,79 MW), cung cấp tốc độ 14 hl/g (26 km/h). Để bảo trì nhà ga, con tàu sử dụng hai động cơ điện Hansome công suất 294 kW. Khả năng điều động chính xác được cung cấp bởi một máy bay phản lực Omnithruster 257 kW (được cung cấp bởi Máy phát điện tuabin khí từ biển Solar (Caterpillar Inc)).

Tàu trong lớp:
– Avenger MCM-1, biên chế 30/9/2014.
– Defender MCM-2, biên chế 1/10/2014.
– Sentry MCM-3, biên chế 2/9/1989.
– Champion MCM-4, biên chế 25/8/2020.
– Guardian MCM-5, biên chế 15/2/2013.
– Devastator MCM-6, biên chế 6/10/1990.
– Patriot MCM-7, biên chế 18/10/1991.
– Scout MCM-8, biên chế 26/8/2020.
– Pioneer MCM-9, biên chế 7/12/1992.
– Warrior MCM-10, biên chế 7/4/1993.
– Gladiator MCM-11, biên chế 18/9/1993.
– Ardent MCM-12, biên chế 27/8/2020.
– Dextrous MCM-13, biên chế 9/7/1994.
– Trưởng MCM-14, biên chế 5/11/1994./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *