KHINH HẠM Giang Hồ II (Jianghu-II), TYPE 053H1

Tổng quan:
Kiểu loại: khinh hạm
– Nhà sử dụng: Hải quân Trung Quốc (PLAN), Bangladesh, Myanmar
– Lớp trước: khinh hạm Type 053H
– Lớp dưới:
+ khinh hạm Type 053H2
+ khinh hạm Type 053H1G (Giang Hồ V)
– Số lượng: 10
+ Hải quân Trung Quốc: 1 tàu đang hoạt động, 3 tàu bán lại và 6 tàu đã ngừng hoạt động
+ Hải quân Bangladesh: 2 đang hoạt động
+ Hải quân Myanmar: 1 ngừng hoạt động
– Lượng giãn nước:
+ 1420 tấn (tiêu chuẩn)
+ 1700 tấn (toàn tải)
– Chiều dài: 103 m
– Chiều rộng: 10,8 m
– Mớn nước: 3,1 m
– Động lực đẩy: 2 x động cơ diesel 12PA68TC (công suất 8000 mã lực)
+ 2 x trục và
+ 4 x bộ máy phát điện diesel 16PA6V280BTC
– Tốc độ: 28 hl/g
– Khả năng đi biển độc lập: 4000 hl (ở vận tốc 18 hl/g)
– Thủy thủ đoàn: 175 người (25 sĩ quan)
– Vũ khí:
+ 2 x 100 mm Type 79A (nòng đôi)
+ 4 x 37 mm H/PJ-76A (nòng đôi)
+ 1 x bệ phóng tên lửa chống hạm hộp đôi Type SY-1A
+ 2 x bệ phóng tên lửa chống ngầm hộp 5
+ 1 x bệ phóng bom chìm Type 64 hộp 4.

Khinh hạm Type 053H1 (tên mã NATO: Jianghu-II, Giang Hồ II). Nó là phiên bản cải tiến của khinh hạm tên lửa chống hạm 053H do Trung Quốc chế tạo vào những năm 1970. Con tàu đầu tiên “Ningbo-Ninh Ba” (được đổi tên thành “Taizhou-Thái Châu” vào ngày 6/3/2003) được khởi đóng tại Nhà máy đóng tàu Hồ Đông vào ngày 12/7/1980. Quá trình xây dựng, tổng cộng có 10 tàu loại này đã được đóng, và 1 tàu hiện đang phục vụ, được biên chế cho Lữ đoàn tàu tuần tra Nam Sa của Hạm đội Đông Hải.

Trong quá trình chế tạo khinh hạm Type 053H, Hải quân đã đề xuất sửa đổi vào tháng 7/1977. Sau khi điều tra, Nhà máy đóng tàu Hudong đã báo cáo các ý kiến ​​sửa đổi cho Bộ máy số 6. Ngày 15/4/1978, Bộ Tổng Tham mưu và BQP phê duyệt “sau khi bố trí đóng xong 14 khinh hạm tên lửa đối hải 053H, sẽ tạm đóng 4 tàu và tiến hành những sửa đổi cần thiết”. Theo đó, nhà máy đóng tàu Hồ Đông (Hudong Shipyard) đã sửa đổi phương án thiết kế. Vào cuối tháng 5/1979, Bộ máy số 6 và Hải quân đã tổ chức cuộc họp đánh giá thiết kế sơ bộ mở rộng 053H (đợt nhiệm vụ thứ hai) tại Thượng Hải. Sau đó, Nhà máy đóng tàu Hudong đã tiến hành thiết kế kỹ thuật và thiết kế xây dựng.

Thân tàu 053H1 loại bỏ tấm chắn mũi, lắp vây ổn định và được trang bị pháo tự động 100 mm nòng kép Type 79 mới, thay thế cho pháo một nòng 100 mm được nạp và vận hành thủ công mà còn là việc hiện đại hóa và thử nghiệm hàng loạt thiết bị mới trên một số tàu loại này vào những năm 1990.

Khinh hạm Type 053H1 đầu tiên, Ninh Ba (số thân tàu 533), được khởi đóng tại Nhà máy đóng tàu Hồ Đông, Thượng Hải vào ngày 12/7/1980 và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 30/6/1982. Tàu 053H1 ban đầu dự kiến ​​đóng 12 chiếc nhưng kế hoạch đóng chiếc thứ 11 và 12 đã bị hủy bỏ và đổi thành tàu 053H2, tổng cộng có 10 tàu loại này đã được đóng.

Năm 1984, pháo chính đuôi tàu, hai súng phòng không và bệ phóng tên lửa chống hạm số 2 đã bị hủy bỏ thử nghiệm trên khinh hạm 053H1 544 “Siping” đang được chế tạo, đồng thời bổ sung một nhà chứa máy bay trực thăng và bệ phóng ở boong dưới có thể mang theo trực thăng đa năng Zhi-9, đây là một trong những nỗ lực ban đầu của Hải quân Trung Quốc nhằm cấu hình máy bay trực thăng hoạt động trên tàu sân bay trên chiến hạm, đồng thời lắp ngư lôi chống ngầm, trở thành khinh hạm chống ngầm tiêu chuẩn. pháo hải quân nhỏ gọn cỡ nòng 100mm một nòng của Công ty Cresault Loire của Pháp, và hệ thống điều khiển hỏa lực là giám đốc quang điện “Naya” của Công ty Thiết bị Tín hiệu và Điện của Pháp. Tàu sau này là Type 053H1Q. Vì vậy, chỉ có thể coi một loại 053H1Q là phiên bản chống ngầm đặc biệt của cấp độ 053H1 này.

Từ tháng 10 đến 12/1985, tàu 533 được tái trang bị tại Nhà máy đóng tàu Hồ Đông, trang bị lại tên lửa Type SY-1A, radar cảnh báo trên không và giới thiệu hệ thống định vị vệ tinh, trung tâm tình báo đơn giản và hệ thống tác chiến điện tử. Từ cuối những năm 1980 đến những năm 1990, một số tàu loại này đã hoàn thành giai đoạn thứ hai của dự án tái trang bị.

Tàu trong lớp:
– 533 Thái Châu, biên chế 30/6/1982, loại biên 13/7/2019.
– 534 Kim Hoa, biên chế 13/12/1982, loại biên 13/7/2019 (làm tàu ​​bảo tàng ở Hoành Điếm).
– 543 Đan Đông, biên chế 30/5/1985, loại biên 5/2021 (làm tàu ​​bảo tàng ở Đan Đông).
– 553 Thiếu Quan, biên chế 24/9/1985, Hạm đội Nam Hải.
– 554 An Thuận, biên chế 27/6/1986, loại biên 3/2012. Chuyển cho Hải quân Miến Điện với tên gọi UMS Maha Bandula (F21).
– 555 Triệu Đồng, biên chế 24/3/1987, loại biên 29/4/2021.
– 545 Lâm Phần, biên chế 30/9/1987, loại biên 13/7/2019.
– 556 Tương Đàm, biên chế 20/12/1987, loại biên 1989. Chuyển cho Hải quân Bangladesh với tên gọi BNS Osman (F18). Đã ngừng hoạt động vào năm 2020.
– 557 Thủ Châu, biên chế 15/6/1988, loại biên 3/2012. Chuyển cho Hải quân Myanmar với tên gọi UMS Maha Thiha Thura (F23)./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *