LIÊN KẾT DỮ LIỆU CHIẾN THUẬT Link 11

TADIL-A / Link 11 là liên kết dữ liệu chiến thuật bán song công an toàn được NATO sử dụng để trao đổi dữ liệu kỹ thuật số. Ban đầu nó được phát triển bởi một ủy ban hỗn hợp bao gồm các thành viên của Hải quân Canada, Hải quân Hoa KỳHải quân Hoàng gia Anh để truyền thông tin nhắm mục tiêu chính xác giữa các tàu. Tiêu chuẩn cuối cùng được ký kết tại Ottawa vào tháng 11/1957, nơi người Anh đề xuất tên “TIDE” cho “Trao đổi dữ liệu quốc tế chiến thuật”. Sau đó, nó đã trở thành một phần của quá trình tiêu chuẩn hóa STANAG của NATO.

Hệ thống hoạt động trên 2 tần số, một trong dải tần số cao HF (high frequency) dành cho liên lạc ngoài đường chân trời OTH (over-the-horizon) và một trong dải tần số siêu cao UHF (ultra high frequency) sử dụng ăng-ten nhỏ hơn nhiều và phù hợp với các tàu nhỏ hơn nhưng thiếu hiệu suất OTH. Hệ thống phát các gói có độ dài 30 bit, với 6 bit sửa lỗi và 24 bit dữ liệu mang (được mã hóa).

Link 14 được sử dụng cùng lúc với tư cách là đối tác cấp thấp của Link 11. Link 14 về cơ bản là một hệ thống máy in từ xa kỹ thuật số thiếu mã hóa và tự động hóa, dành cho các tàu thiếu khả năng sử dụng dữ liệu Link 11 theo cách tự động.

Tên gọi “Link 11” có nguồn gốc từ “Link II”, tên gọi của Anh sử dụng chữ số La Mã trước khi NATO tiêu chuẩn hóa bằng chữ số Ả Rập. “Link I” là liên kết dữ liệu được sử dụng bởi Hệ thống Hiển thị Toàn diện.

Tổng quan

MIL-STD-6011 trao đổi thông tin kỹ thuật số giữa các hệ thống dữ liệu chiến thuật trên không, trên bộ và trên tàu. Đây là phương tiện chính để trao đổi dữ liệu như thông tin theo dõi radar ngoài tầm nhìn. TADIL-A có thể được sử dụng ở tần số cao (HF) hoặc tần số siêu cao (UHF). Tuy nhiên, Quân đội Hoa Kỳ chỉ sử dụng HF. Link 11 dựa trên một nền tảng duy nhất để báo cáo thông tin vị trí khi phát hiện cảm biến. Thông tin vị trí này có thể được khuếch đại với dữ liệu bổ sung để xác định danh tính của băng tần được phát hiện. Link 11 được phát triển bởi Ralph Benjamin trong khi làm việc với Cơ sở Vũ khí Bề mặt Admiral ASWE (Admiralty Surface Weapons Establishment), Portsmouth.

Link 11 sẽ được thay thế bằng Link 22.

Link 11 được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ xác định là MIL-STD-6011.

Hệ thống thông tin chiến thuật độc lập của hải quân NAUTIS (Naval Autonomous Tactical Information System) ban đầu bao gồm hệ thống Link 11 như được cài đặt trong các khinh hạm lớp Leander của Hải quân Hoàng gia New Zealand như một phần của quá trình nâng cấp giữa vòng đời trong những năm 1980 HMNZS Canterbury; Các phiên bản NAUTIS cũng được tìm thấy trên các tàu quét mìn lớp Hunt của Hải quân Hoàng gia Anh.

Đặc điểm kỹ thuật

Link 11 là một liên kết bán song công, có mạng, thường hoạt động theo điểm danh từ Trạm điều khiển mạng dữ liệu DNCS (Data Net Control Station). Link 11 cũng có thể hoạt động ở chế độ phát sóng. Chế độ hoạt động điểm danh được sử dụng trong giao diện Link 11 yêu cầu mỗi Đơn vị Tham gia PU (Participating Unit) phản hồi lần lượt trong khi tất cả các trạm khác đang nhận. Một DNCS bắt đầu cuộc gọi điểm danh bằng cách giải quyết và truyền thông báo thẩm vấn đến một PU cụ thể, sau đó phản hồi bằng cách truyền dữ liệu của nó. Sau đó, DNCS sẽ thẩm vấn PU tiếp theo trong cuộc gọi điểm danh theo quy định. Link 11 có thể được truyền trên các dải Tần số Cao (HF) và/hoặc Tần số Siêu Cao (UHF). Tốc độ dữ liệu có thể được chọn từ tốc độ bit là 2250 hoặc 1364 bit/s. Hoạt động phân tập dải biên kép và các tính năng hiệu chỉnh dịch chuyển Doppler cải thiện độ tin cậy và độ chính xác của việc trao đổi dữ liệu. Link 11 hoạt động trên HF (2-30 MHz) và/hoặc UHF (Đường ngắm hay đường nhìn thẳng (LOS – Line Of Sight)) (225-400 MHz). Một số Bộ đầu cuối dữ liệu DTS (Data Terminal Sets) cung cấp tùy chọn để chọn Dạng sóng Link 11 thông thường CLEW (Conventional Link 11 Waveform) hoặc Dạng sóng Link 11 âm đơn SLEW (Single tone Link 11 Waveform). SLEW và CLEW không phải là dạng sóng tương thích. SLEW, trong số các cải tiến khác, cung cấp khả năng lan truyền tăng lên và thuật toán Phát hiện và Sửa lỗi EDAC (Error Detection and Correction) mạnh mẽ hơn. Mặc dù tồn tại tùy chọn để hoạt động ở chế độ CLEW hoặc SLEW, nhưng tất cả những người tham gia trong mạng Link 11 nhất định phải chọn cùng một dạng sóng để đạt được kết nối giữa các thiết bị. Link 11 được định nghĩa trong Tiêu chuẩn quân sự MIL STD (Military Standard) 6011, Tiêu chuẩn tin nhắn A/B liên kết dữ liệu chiến thuật TDL (Tactical Data Link).

Thay đổi thuật ngữ

Thuật ngữ Liên kết thông tin kỹ thuật số chiến thuật (TADIL) đã lỗi thời (theo hướng dẫn của DISA) và hiện nay thường được coi là Liên kết dữ liệu chiến thuật (TDL)./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *