Phổ chính trị tả-hữu (left-right political spectrum) là một hệ thống phân loại các vị trí chính trị, hệ tư tưởng và đảng phái, với sự nhấn mạnh vào các vấn đề về bình đẳng xã hội và hệ thống phân cấp xã hội. Ngoài các vị trí ở bên trái (tả) và bên phải (hữu), còn có các vị trí trung dung và ôn hòa, không liên kết chặt chẽ với bất kỳ đầu nào của phổ. Nó bắt nguồn từ thời Cách mạng Pháp dựa trên việc ngồi vào Quốc hội Pháp.
Trên loại phổ chính trị này, chính trị cánh tả và chính trị cánh hữu thường được trình bày là đối lập, mặc dù một cá nhân hoặc nhóm cụ thể có thể có lập trường cánh tả về một vấn đề và lập trường cánh hữu về một vấn đề khác; và một số lập trường có thể chồng chéo và được coi là cánh tả hoặc cánh hữu tùy thuộc vào hệ tư tưởng. Ở Pháp, nơi các thuật ngữ này bắt nguồn, cánh tả được gọi là “đảng của phong trào” hoặc tự do (liberal), và cánh hữu là “đảng của trật tự” hoặc bảo thủ (conservative).
Lịch sử
Nguồn gốc của cuộc cách mạng Pháp
Các thuật ngữ “trái” (tả) và “phải” (hữu) lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 khi các thành viên của Quốc hội chia thành những người ủng hộ Ancien Régime ở bên phải tổng thống và những người ủng hộ cách mạng ở bên trái của ông. Một đại biểu, Nam tước de Gauville, giải thích: “Chúng tôi bắt đầu nhận ra nhau: những người trung thành với tôn giáo và nhà vua đã chiếm vị trí bên phải ghế để tránh những tiếng la hét, lời thề và sự khiếm nhã được tự do tung hoành trong phe đối lập”.
Khi Quốc hội được thay thế vào năm 1791 bằng một Hội đồng lập pháp gồm toàn bộ các thành viên mới, các bộ phận vẫn tiếp tục. “Những người đổi mới” ngồi bên trái, “những người ôn hòa” tập trung ở trung tâm, trong khi “những người bảo vệ tận tâm của hiến pháp” thấy mình ngồi bên phải, nơi những người bảo vệ Ancien Régime đã tập trung trước đó. Khi Đại hội quốc gia tiếp theo họp vào năm 1792, cách sắp xếp chỗ ngồi vẫn tiếp tục, nhưng sau cuộc đảo chính ngày 2/6/1793 và vụ bắt giữ Girondins, phía bên phải của hội đồng đã bị bỏ hoang và bất kỳ thành viên nào còn lại đã ngồi ở đó đều chuyển đến trung tâm. Sau Phản ứng Thermidorian năm 1794, các thành viên cực tả đã bị loại trừ và phương pháp sắp xếp chỗ ngồi đã bị bãi bỏ. Hiến pháp mới bao gồm các quy tắc cho hội đồng sẽ “chia rẽ các nhóm đảng phái”. Sau cuộc Phục hồi năm 1814-1815, các câu lạc bộ chính trị lại được thành lập. Phần lớn những người theo chủ nghĩa bảo hoàng cực đoan chọn ngồi bên phải. Những người “hiến pháp” ngồi ở giữa trong khi những người độc lập ngồi bên trái. Các thuật ngữ cực hữu (extreme right) và cực tả (extreme left), cũng như trung hữu (centre-right) và trung tả (centre-left), đã được sử dụng để mô tả sắc thái ý thức hệ của các bộ phận khác nhau của hội đồng.
Các thuật ngữ “tả” và “hữu” không được dùng để chỉ hệ tư tưởng chính trị per se, mà, nói một cách nghiêm ngặt, để chỉ việc ngồi vào cơ quan lập pháp. Sau năm 1848, các phe đối lập chính là “những người theo chủ nghĩa xã hội dân chủ” và “những người phản động” sử dụng cờ đỏ và trắng để xác định đảng phái của họ. Với sự thành lập của Đệ tam Cộng hòa vào năm 1871, các thuật ngữ đã được các đảng phái chính trị áp dụng: Cộng hòa cánh tả, Trung hữu và Trung tả (1871) và Cực tả (1876)… Niềm tin của nhóm được gọi là Cực tả thực sự gần với Trung tả hơn là niềm tin của những người được gọi là Cực tả.
Bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, các thuật ngữ “tả” và “hữu” bắt đầu gắn liền với các hệ tư tưởng chính trị cụ thể và được dùng để mô tả niềm tin chính trị của công dân, dần thay thế các thuật ngữ “đỏ” và “phản ứng”. Các từ Trái và Phải lúc đầu được những người phản đối sử dụng như những lời lăng mạ. Những người bên Trái thường tự gọi mình là “cộng hòa”, vào thời điểm đó có nghĩa là ủng hộ chế độ cộng hòa hơn chế độ quân chủ, trong khi những người bên Phải thường tự gọi mình là “bảo thủ”. Đến năm 1914, nửa bên Trái của cơ quan lập pháp ở Pháp bao gồm những người Xã hội chủ nghĩa Thống nhất, những người Xã hội chủ nghĩa Cộng hòa và những người Xã hội chủ nghĩa Cấp tiến, trong khi các đảng được gọi là “hữu” hiện nằm ở phía bên phải. Việc sử dụng các từ tả và hữu lan rộng từ Pháp sang các quốc gia khác và được áp dụng cho một số lượng lớn các đảng phái chính trị trên toàn thế giới, thường khác nhau về niềm tin chính trị của họ. Có sự bất đối xứng trong việc sử dụng các thuật ngữ tả và hữu của các phe đối lập. Phe hữu chủ yếu phủ nhận rằng phổ tả-hữu có ý nghĩa vì họ coi đó là giả tạo và gây tổn hại đến sự thống nhất. Tuy nhiên, phe cánh tả, tìm cách thay đổi xã hội, đã thúc đẩy sự phân biệt này. Như Alain đã quan sát vào năm 1931: “Khi mọi người hỏi tôi rằng sự phân chia giữa các đảng cánh hữu và các đảng cánh tả, những người cánh hữu và những người cánh tả, có còn hợp lý không, điều đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi là người đặt câu hỏi chắc chắn không phải là người cánh tả”. Trong chính trị Anh, các thuật ngữ “cánh hữu” và “cánh tả” lần đầu tiên được sử dụng phổ biến vào cuối những năm 1930 trong các cuộc tranh luận về Nội chiến Tây Ban Nha. Nhà xã hội học người Scotland Robert M. MacIver đã lưu ý trong The Web of Government (1947): “Cánh hữu luôn là khu vực đảng phái liên quan đến lợi ích của các tầng lớp thượng lưu hoặc thống trị, cánh tả là khu vực thể hiện các tầng lớp kinh tế hoặc xã hội thấp hơn, và trung tâm là của các tầng lớp trung lưu. Về mặt lịch sử, tiêu chí này có vẻ chấp nhận được. Cánh hữu bảo thủ đã bảo vệ các đặc quyền, đặc quyền và quyền lực cố hữu; cánh tả đã tấn công chúng. Cánh hữu ủng hộ hơn cho vị trí quý tộc, cho hệ thống phân cấp về xuất thân hoặc của cải; cánh tả đã đấu tranh cho sự bình đẳng về lợi thế hoặc cơ hội, cho các yêu sách của những người kém lợi thế hơn. Phòng thủ và tấn công đã gặp nhau, trong các điều kiện dân chủ, không phải nhân danh giai cấp mà nhân danh nguyên tắc; nhưng các nguyên tắc đối lập đã tương ứng rộng rãi với lợi ích của các giai cấp khác nhau.
Xem thêm:
PHỔ CHÍNH TRỊ (Political spectrum)
CHÍNH TRỊ CÁNH TẢ (Left-wing politics)
CHÍNH TRỊ CÁNH HỮU (Right-wing politics)
…