Thủy thủ (người đi biển) có khả năng (Able seaman) là một cấp bậc quân sự được sử dụng trong lực lượng hải quân.
Hải quân Hoàng gia
Năm 1653, Hải quân Hoàng gia (RN) đã giới thiệu một thang lương mới như một phần của cải cách sau thất bại trong Trận chiến Dungeness năm trước. Lần đầu tiên, những cải cách này bao gồm các thang lương riêng cho những thủy thủ có kinh nghiệm hơn, phân biệt giữa một thủy thủ bình thường (ordinary seaman) và một thủy thủ có khả năng (able seaman). Thủy thủ có khả năng được xếp hạng cao hơn được yêu cầu phải có khả năng lái, sử dụng thiết bị dẫn đường và làm việc trên cao (cột buồm), đồng thời được trả lương cao hơn khoảng 25% so với thủy thủ bình thường.
Vào giữa thế kỷ XVIII, thuật ngữ “able seaman” (thủy có khả năng, viết tắt là AB) dùng để chỉ một thủy thủ có hơn 2 năm kinh nghiệm trên biển và được coi là “đã quen với nhiệm vụ của mình”. Những thủy thủ có ít kinh nghiệm hơn được gọi là “landsmen” (thủy thủ mới nhập ngũ (tân binh), trong năm đầu tiên trên biển) hoặc “ordinary seaman” (thủy thủ bình thường, trong năm thứ hai).
Trong thời chiến (chẳng hạn như Chiến tranh Bảy năm hoặc Chiến tranh Napoléon), với nhiều tàu chiến hơn đang hoạt động, hải quân, tàu buôn và tư nhân đã cạnh tranh khốc liệt để giành được số lượng thủy thủ có năng lực hạn chế, dẫn đến việc sử dụng ép buộc kiểu “bắt lính” không được ưa chuộng bởi Hải quân Hoàng gia để giữ cho tàu của mình có người lái. Trong thời bình, với ít tàu chiến hoạt động hơn, thường có rất nhiều thủy thủ có khả năng thất nghiệp sẵn sàng làm việc trong hải quân. Vào cuối Chiến tranh Napoléon, việc Hải quân Hoàng gia Anh ngăn chặn các tàu Mỹ để buộc các thủy thủ Mỹ phải nhập ngũ là một trong những yếu tố chính dẫn đến Chiến tranh năm 1812 với Hoa Kỳ.
Hải quân Hoàng gia Canada
Trong Hải quân Hoàng gia Canada (RCN), Thủy thủ hạng 2 (Sailor Second Class, trước đây là Thủy thủ có khả năng (Able Seaman) cho đến tháng 8/2020) là cấp thấp thứ hai trong số các cấp bậc hạ sĩ quan, xếp trên Thủy thủ hạng 3 (Sailor Third Class) và dưới Thủy thủ hạng nhất (Sailor First Class). Các thủy thủ hạng hai đeo một dấu chữ V màu vàng duy nhất, như một phù hiệu của cấp bậc; nó được đeo ở phần trên của cả hai tay áo của bộ lễ phục công vụ, và đeo ở hai vai trên các bộ đồng phục khác.
Trong tất cả các ngành nghề, cấp bậc được trao khi hoàn thành 30 tháng phục vụ, khi đó tất cả các khóa đào tạo ban đầu đã hoàn thành. Do đó, đôi khi người ta nói rằng việc thăng cấp lên Thủy thủ hạng 2 có nghĩa là người nhận đã mất đi “lý do chính đáng nhất” của họ, theo lý thuyết rằng các Thủy thủ hạng 3 thường được cho là không biết gì.
Thủy thủ hạng 2 là cấp bậc tương đương với binh nhất (trained private), hoặc đơn giản là binh nhì (private), trong Quân đội và Không quân. Trong tiếng Pháp, cấp bậc được gọi là matelot de 2e classe.
Vào tháng 8/2020, Hải quân Hoàng gia Canada (RCN) đã thay thế thuật ngữ “seaman” bằng thuật ngữ “sailor” không phân biệt giới tính. Các thủy thủ có khả năng hiện được gọi là “Sailor Second Class” (Thủy thủ hạng hai).
Hải quân Hoàng gia Australia
Trong Hải quân Hoàng gia Úc, thủy thủ có năng lực (AB) là cấp thấp thứ hai trong số các cấp bậc hạ sĩ quan, xếp trên thủy thủ seaman và dưới thủy thủ chính (leading seaman).
Thủy thủ có khả năng là cấp bậc tương đương với Thợ máy bay chính (Leading aircraftman) trong Lực lượng Không quân và Binh nhất (Private Proficient) trong Lục quân. Nó không tương đương với Lance Corporal mà được xếp hạng là E4 chứ không phải E3 như các bậc Able Seaman và Leading Aircraftman.
Thủy thủ có khả năng với các kỹ năng bổ sung được biểu thị bằng các sửa đổi đối với cấp bậc “AB”; ví dụ như kỹ năng chụp ảnh được thừa nhận trong danh hiệu Chuyên viên hình ảnh có khả năng đi biển ABIS (Able Seaman Imagery Specialist).
Thế nào là một AB được coi là lành nghề?
Đó là những những kỹ năng cơ bản cần có sau:
1. Nghề mộc: Bảo trì chung các phụ kiện bằng gỗ khác nhau của tàu. Họ sẽ cần kỹ năng mộc trên những con tàu mới được đóng và giao, điều này là do con tàu sẽ cần những chiếc ghế đẩu bằng gỗ, băng ghế gỗ, giá để cốc bằng gỗ, giá đựng bút chì bằng gỗ; giường đi kèm với con tàu và tủ quần áo.
2. Nghề ống nước: Thông thường khi có sự cố về đường ống, bộ phận cơ điện sẽ được gọi. Có thể là Nhân viên xăng dầu (oiler), hoặc Nhân viên đường ống (wiper) là người sẽ tìm ra vấn đề, hoặc cũng có thể là Máy 1 (first engineer) hoặc Máy 2 (second engineer) nếu họ muốn hoặc họ được Máy trưởng (chief engineer) ra lệnh làm như vậy.
3. Nghề sơn: Trên tàu, có một quy trình khi bạn sơn bề mặt kim loại, gỗ, sắt không rỉ, nhựa, cao su… Không chỉ trên boong mà cả dưới vạch mớn nước, nơi phải có sơn chống hà. Hay đối với động cơ, nơi sơn phủ phải là loại chịu nhiệt độ cao.
4. Nối: Những vật liệu như polyester, polypropylen, polyetylen và polyamit là những loại phổ biến nhất được sử dụng trong neo đậu, là những chất liệu dây phổ biến, cung cấp sức mạnh và độ bền. Nhưng khi những cơn bão mạnh ập đến, những vật liệu này không phải là không thể phá hủy – chúng bị gãy, đứt, hư hại. Và khi họ làm vậy, và con tàu không có dây dự phòng, điều tốt nhất nên làm là NỐI. Đó là công việc của một AB. Thậm chí cả nối những sợi cáp sắt.
5. Người lái tàu xuất sắc.
6. Đánh bắt cá: AB là những người có kĩ năng đánh bắt cá trên biển, đồng thời là thú tiêu khiển, nhưng cũng thể hiện kinh nghiệm của họ.
Và khi một AB lành nghề quyết định không lấy chứng chỉ để trở thành sĩ quan, bosun hoặc boatswain là cấp bậc tiếp theo của anh ta./.