CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG (Dialectical materialism)

Chủ nghĩa duy vật biện chứng (dialectical materialism) là một lý thuyết duy vật dựa trên các tác phẩm của Karl MarxFriedrich Engels, đã tìm thấy những ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành triết học khác nhau, từ triết học lịch sử đến triết học khoa học. Là một triết học duy vật, phép biện chứng Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của các điều kiện thực tế và sự hiện diện của các mâu thuẫn chức năng trong và giữa các mối quan hệ xã hội, bắt nguồn từ, nhưng không giới hạn ở, các mâu thuẫn xảy ra trong giai cấp xã hội, kinh tế lao động và các tương tác kinh tế xã hội. Trong chủ nghĩa Marx, mâu thuẫn là mối quan hệ trong đó hai lực đối lập nhau, dẫn đến sự phát triển lẫn nhau.

Ngược lại với quan điểm duy tâm của phép biện chứng Hegel, quan điểm duy vật của phép biện chứng Marx nhấn mạnh rằng những mâu thuẫn trong các hiện tượng vật chất có thể được giải quyết bằng phân tích biện chứng, từ đó tổng hợp giải pháp giải quyết mâu thuẫn, trong khi vẫn giữ nguyên bản chất của hiện tượng. Marx đề xuất rằng giải pháp hiệu quả nhất cho các vấn đề do mâu thuẫn gây ra là giải quyết mâu thuẫn và sau đó sắp xếp lại các hệ thống tổ chức xã hội là gốc rễ của vấn đề.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận sự tiến hóa của thế giới tự nhiên, và do đó sự xuất hiện của những phẩm chất mới của con người và sự tồn tại của con người. Engels đã sử dụng sự hiểu biết siêu hình rằng cấp độ tồn tại cao hơn của con người xuất hiện từ và được bắt nguồn từ cấp độ tồn tại thấp hơn của con người. Rằng cấp độ tồn tại cao hơn là một trật tự mới với các quy luật không thể giản lược, và rằng sự tiến hóa được chi phối bởi các quy luật phát triển, phản ánh các tính chất cơ bản của vật chất trong chuyển động.

Vào những năm 1930, tại Liên Xô, cuốn sách Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử (1938) của Joseph Stalin đã đưa ra công thức của Liên Xô về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, được giảng dạy trong hệ thống giáo dục của Liên Xô. Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một văn bản tương tự là bài luận Về mâu thuẫn (1937) của Mao Trạch Đông, đây là một văn bản nền tảng của chủ nghĩa Mao.

Thuật ngữ

Thuật ngữ duy vật biện chứng được Joseph Dietzgen, một người theo chủ nghĩa xã hội trao đổi thư từ với Marx, đặt ra vào năm 1887 trong và sau cuộc Cách mạng Đức thất bại năm 1848. Thuật ngữ “duy vật biện chứng” cũng được đề cập một cách thông thường trong tiểu sử Frederick Engels, của triết gia Karl Kautsky, được viết vào năm 1899. Bản thân Marx đã nói về “quan niệm duy vật về lịch sử”, sau này được Engels gọi là “duy vật lịch sử”. Engels giải thích thêm về “phép biện chứng duy vật” trong tác phẩm Biện chứng của Tự nhiên của ông vào năm 1883. Georgi Plekhanov, cha đẻ của chủ nghĩa Marx Nga, lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “duy vật biện chứng” vào năm 1891 trong các bài viết của ông về Georg Wilhelm Friedrich Hegel và Marx. Stalin tiếp tục phác họa và định nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là thế giới quan của chủ nghĩa Marx-Lenin, và là một phương pháp để nghiên cứu xã hội và lịch sử của nó.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *