KHINH HẠM LỚP Giang Vệ II, TYPE 053H3

Tổng quan:
Kiểu loại: khinh hạm (frigate)
– Lớp trước: Type 053H2G (Giang Vệ I)
– Lớp sau: Type 054 (Giang Khải I)
– Lớp dưới: Zulfikar (chuyển giao cho Bangladesh, 2 chiếc)
– Số lượng: 12 tàu (8 chiếc đang hoạt động, 4 chiếc chuyển giao cho Bangladesh)
– Lượng giãn nước:
+ 2.250 tấn (tiêu chuẩn)
+ 2.393 tấn (toàn tải)
– Chiều dài: 115,4 m
– Chiều rộng: 14,3 m
– Mớn nước: 4,3 m
– Động lực đẩy (CODAD):
+ 2 x động cơ diesel 18E390VA công suất 14.000 mã lực (10.000 kW) mỗi chiếc
+ 2 x động cơ diesel MTU công suất 8.840 mã lực (6.500 kW) mỗi chiếc
+ 2 x trục
– Tốc độ: 27 hl/g (50 km/h)
– Phạm vi hoạt động: 4000 hl (ở vận tốc 18 hl/g)
– Quân số: 168 người
– Vũ khí:
+ 8 x HQ-7 (tên lửa phòng không) hoặc 8 x HQ-10 (tên lửa phòng không tầm ngắn – sau khi sửa đổi)
+ 2 x 4 YJ-83 (tên lửa chống hạm)
+ 2 x 2 100 mm H/PJ-33A
+ 4 x 2 37 mm H/PJ-76A hoặc 2 x 7 30 mm H/PJ-12 (CIWS Type 730 (sau khi sửa đổi)
+ 2 x 6 x Type 3200 (tổ hợp bom chìm chống ngầm)
– Máy bay: 1 x Z-9C.

Khinh hạm Type 053H3 (tên NATOJiangwei II, nghĩa là lớp Giang Vệ II) là khinh hạm thế hệ thứ hai được trang bị tên lửa phòng không của Hải quân Trung Quốc (PLAN), và là phiên bản cuối cùng của dòng khinh hạm 053H.

Tàu đầu tiên Jiaxing 521 (Gia Hưng 521) được hạ thủy tại Nhà máy đóng tàu Hudong (Hồ Đông), Thượng Hải vào tháng 6/1997. Nó được đưa vào hoạt động vào tháng 11/1998 và gia nhập Hạm đội Đông Hải.

Do Hải quân Trung Quốc được bố trí để phòng thủ bờ biển và có thể thực hiện các hoạt động quân sự chống lại Đài Loan vào những năm 1990, nên các hoạt động chính của hải quân là trong chuỗi đảo thứ nhất, vì vậy phương tiện hải quân trong giai đoạn này chủ yếu là tàu hạng nhẹ. Tuy nhiên, một số lượng lớn các khinh hạm Type 065 đời đầu phục vụ trong những năm 1950 và 1960 đang phải đối mặt với chu kỳ nghỉ hưu nên Hải quân cần một loạt khinh hạm mới để thay thế các tàu ban đầu.

Do khu vực hoạt động của hải quân trong giai đoạn này về cơ bản nằm trong phạm vi bao phủ của hàng không trên bờ, nên vũ khí phòng không được thiết kế cho tàu chỉ cần tên lửa phòng không tầm ngắn để tự bảo đảm khả năng phòng thủ cơ bản. Công nghệ tên lửa HQ-61 được phát triển vào những năm 1970 đã lỗi thời. Trong hoàn cảnh như vậy, bằng cách tiếp thu công nghệ của tên lửa phòng không Sidewinder hợp pháp được giới thiệu vào những năm 1980 và 1990 khi mối quan hệ với phương Tây vẫn còn tốt đẹp, tên lửa phòng không tầm ngắn HHQ-7 dành riêng cho hải quân tên lửa phòng không được phát triển, cải thiện hiệu quả khả năng tự phòng không tầm ngắn của các tàu hải quân chủ lực. Loại tên lửa này cũng được trang bị cho tàu khu trục Type 052 cùng thời, tàu khu trục Type 051 cải tiến và tàu khu trục Type 051B thử nghiệm, đây là lực lượng phòng không chủ lực dựa trên tàu sân bay của Hải quân Trung Quốc vào thời điểm đó. Hệ thống này cũng là hệ thống phòng không hiệu quả nhất cho các tàu của PLAN cho đến khi các tàu khu trục lớp hiện đại mua từ Nga đi vào hoạt động.

Lực lượng phòng không chủ yếu dựa vào tên lửa phòng không HQ-7, là tên lửa phòng không tầm ngắn, phiên bản xuất khẩu là FM-90N, tổng chiều dài 3 m, đường kính đầu đạn 156 mm, sải cánh 0,55 m, trọng lượng phóng 84,5 kg, tốc độ tối đa Mach 2.3, độ cao bắn 15-5500 m, tầm bắn tối đa 10-12 km, tầm bắn tối thiểu 500 m, xác suất tiêu diệt là khoảng 70%, nó có thể đánh chặn các mục tiêu ở độ cao thấp với độ cao bay là 5 m và tốc độ phản hồi của hệ thống là 6,5 s. Sau khi sửa đổi, nó được thay thế bằng 8 quả tên lửa chống tên lửa tầm gần HQ-10.

Tên lửa chống hạm 4 nòng YJ-83 là trang bị tiêu chuẩn của tàu khu trục và khinh hạm Hải quân PLA, dài 6,86 m, sải cánh 1,18 m, đường kính đầu đạn 0,36 m, tổng trọng lượng 850 kg, đầu đạn nặng 165 kg, độ cao bay lướt trên biển là 35 m, và hạ xuống cách mặt biển 5-7 m ở khoảng cách 5 km so với mục tiêu, tầm bắn tối đa là 150-180 km, và phát một lần tỷ lệ trúng trên 95%.

Nhà chứa máy bay và phía trước đài chỉ huy được trang bị 2 khẩu pháo phòng không tầm gần 37 mm 76A hai nòng. Sau khi sửa đổi, nó được thay thế bằng 2 CIWS H/PJ-12 7 nòng 30mm đơn giản hóa (các radar điều khiển hỏa lực được bố trí tập trung).

Trang thiết bị điện tử của loại tàu này chủ yếu sử dụng thiết bị nội địa đã hoàn thiện, phía trên thân chính cột ăng-ten là radar tìm kiếm tọa độ hai tần số 363S E/F, biển đối không, cự ly hoạt động 50 km, và chiều cao phát hiện lên tới 10.000 m. Có một bệ phía trước cột buồm phía trước và hai radar điều khiển hỏa lực được đặt trên đó, trong đó có hệ thống điều khiển hỏa lực quang điện/radar Type 344 (MR-34) điều khiển pháo tàu và tên lửa chống hạm được đặt ở phía trước, tiếp theo là radar dẫn đường. Radar chiếu sáng 345 (MR-35) của tên lửa chỉ có thể dẫn đường cho một tên lửa HQ-7 tham chiến tại một thời điểm. Ngoài ra còn có hai radar điều hướng Racal Decca 1229 tần số I trên cột ăng-ten phía trước. Bên trong tấm chắn hình cầu trên đỉnh cột buồm phía sau là radar tìm kiếm trên không/biển 2D tần số X Type 364. Ngoài ra, còn có một radar điều khiển vô tuyến tần số 347G I/K được bố trí phía trên thư viện trực thăng.

Kể từ năm 2017, tàu Type 053H3 564 Yichang (Nghi Xương), tàu 566 Huaihua (Hoài Hóa), tàu 567 Xiangyang (Tương Dương), tàu 565 Huludao (Hồ Lô Đảo), tàu 527 Luoyang (Lạc Dương) và tàu 528 Mianyang (Miên Dương) đã được cập cảng để tái trang bị và nâng cấp, đồng thời quay trở lại hoạt động sau khi hoàn thành. Trọng tâm của cải tiến là thay thế tên lửa phòng không HQ-7 ban đầu bằng tên lửa phòng không HQ-10. 4 khẩu pháo bắn nhanh H/PJ-76 37 mm nòng đôi nguyên bản trên tàu đã được thay thế bằng 2 khẩu phòng không tầm gần 6 nòng 30 mm H/PJ-13; như lấy thiết bị điều khiển hỏa lực / theo dõi quang điện tích hợp, nó kém xa so với súng hải quân H/PJ-12 7 nòng 30 mm được lắp đặt trên tàu khu trục của Hải quân Trung Quốc, nhưng giá thành thấp hơn nhiều và hiệu quả về mặt chi phí khi lắp đặt trên khinh hạm tên lửa dẫn đường 053H3. Từ phân tích các bức ảnh công khai, một điểm khác biệt nữa giữa loại pháo này và pháo bắn nhanh H/PJ-13 6 ống 30 mm là pháo phòng thủ tầm gần phải được điều khiển bằng nguồn năng lượng bên ngoài. Ngoài ra, các thiết bị điện, liên kết dữ liệu và hệ thống chỉ huy tác chiến của tàu cũng được nâng cấp.

Khinh hạm lớp Zulfikar được thiết kế trên cơ sở 053H3 đã được xuất khẩu cho Hải quân Pakistan từ năm 2009, tổng cộng 4 chiếc.

Vào năm 2017, một thỏa thuận đã được ký kết để xuất khẩu các tàu 522 và 523 của Hải quân Trung Quốc cho Hải quân Bangladesh, và số thân tàu được đổi thành F16 và F19.

Tàu trong lớp:
– 521 (Gia Hưng, Jiaxing), biên chế trong PLAN 6/1999-5/8/2019, bán cho Bangladesh, đang hoạt động.
– 522 (Liên Vân Cảng, Lianyungang), biên chế 1/1999, Hạm đội Đông Hải, Lô 1.
– 523 (Phủ Điền, Putian), biên chế trong PLAN 12/1999-18/10/2019, bán cho Bangladesh, đang hoạt động.
– 524 (Tam Minh, Sanming), biên chế 25/12/ 2000, HđĐH, (Lô 1).
– 527 (Lạc Dương, Luoyang), biên chế 9/2005, Hạm đội Bắc Hải, (Lô 2).
– 528 (Miên Dương, Mianyang), biên chế 4/2005, HđBH, (Lô 2).
– 564 (Nghi Xương, Yichang), biên chế 12/1999, HđBH, (Lô 1).
– 565 (Hồ Lô Đảo, Huludao), biên chế 31/7/2000, HđBH, (Lô 1).
– 566 (Hoài Hóa, Huaihua), biên chế 2/6/2002, HđĐH, (Lô 1).
– 567 (Tương Dương, Xiangyang), biên chế 5/2002, HđĐH, (Lô 1)./.

Bài viết được đề xuất

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *