TÀU KHU TRỤC (Destroyer)

Ngày nay, bước sang thế kỷ XXI, không phải tàu sân bay, không phải tàu ngầm, đây mới là loại tàu thống trị mặt biển, tạo lên sức mạnh cơ bản của Hải quân một quốc gia có biển.

Theo thuật ngữ hải quân phương Tây, “destroyer” (tàu khu trục) là loại tàu chiến có tốc độ nhanh, cơ động, có sức bền lâu, dùng để hộ tống các tàu lớn hơn trong một hạm đội, đoàn tàu vận tải hoặc nhóm chiến đấu và bảo vệ chúng trước những kẻ tấn công tầm ngắn mạnh mẽ. Ban đầu chúng được phát triển vào năm 1885 bởi Fernando Villaamil cho Hải quân Tây Ban Nha để phòng thủ chống lại các tàu phóng lôi, và vào thời kỳ Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904, những “tàu khu trục ngư lôi” (TBD – torpedo boat destroyer) này là “các tàu phóng lôi lớn, nhanh nhẹn và được trang bị mạnh mẽ được thiết kế để tiêu diệt các tàu phóng lôi khác”. Mặc dù thuật ngữ “tàu khu trục” (destroyer) đã được hải quân sử dụng thay thế cho “TBD” và “tàu khu trục ngư lôi” (torpedo boat destroyer) kể từ năm 1892, thuật ngữ “tàu khu trục ngư lôi” thường được rút ngắn thành “tàu khu trục” bởi gần như tất cả hải quân các nước trong Thế chiến I.

Trước Thế chiến II, các tàu khu trục là những tàu hạng nhẹ có ít sức chịu đựng cho các hoạt động không người giám sát trên biển; điển hình là một số tàu khu trục và một tàu phục vụ khu trục (destroyer tender) hoạt động cùng nhau. Sau chiến tranh, sự ra đời của tên lửa dẫn đường cho phép các tàu khu trục đảm nhận vai trò tác chiến trên mặt nước mà các thiết giáp hạm (battleship)tàu tuần dương (cruiser) đảm nhiệm trước đây. Điều này dẫn đến việc các tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớn hơn và mạnh hơn có khả năng hoạt động độc lập hơn.

Vào đầu thế kỷ XXI, tàu khu trục là tiêu chuẩn toàn cầu cho các tàu tác chiến mặt nước, chỉ có hai quốc gia (Hoa Kỳ và Nga) chính thức vận hành các tàu tuần dương hạng nặng hơn, không còn thiết giáp hạm (battleship) hoặc tàu chiến-tuần dương (battlecruiser) nào thực sự. Tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường hiện đại có trọng tải tương đương nhưng hỏa lực vượt trội hơn hẳn so với các tàu tuần dương thời Thế chiến II, và có khả năng mang tên lửa hành trình đầu đạn hạt nhân. Dài 160 m, lượng giãn nước 9.200 tấn và với hơn 90 tên lửa, các tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường như lớp Arleigh Burke thực sự lớn hơn và được trang bị vũ khí mạnh hơn hầu hết các tàu trước đây được phân loại là tàu tuần dương tên lửa dẫn đường. Tàu khu trục Type 055 của Trung Quốc đã được mô tả như một tàu tuần dương trong một số báo cáo của Hải quân Hoa Kỳ do kích thước và vũ khí trang bị của nó.

Một số hải quân NATO, chẳng hạn như Canada, Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan và Đức, sử dụng thuật ngữ “khinh hạm(frigate) cho các tàu khu trục của họ, điều này dẫn đến một số nhầm lẫn.

Sau Thế chiến II, các tàu khu trục ngày càng lớn về kích cỡ. Các tàu khu trục lớp Allen M. Sumner của Mỹ có lượng giãn nước 2.200 tấn, trong khi lớp Arleigh Burke có lượng giãn nước lên tới 9.600 tấn (kích thước tăng gần 340%).

Nguồn gốc

Sự xuất hiện và phát triển của tàu khu trục có liên quan đến việc phát minh ra ngư lôi tự hành vào những năm 1860. Hải quân khi đó có tiềm năng tiêu diệt hạm đội chiến đấu vượt trội của đối phương bằng cách phóng lôi. Những con tàu nhanh, rẻ tiền được trang bị ngư lôi được gọi là “tàu phóng lôi” (torpedo boat) được chế tạo và trở thành mối đe dọa đối với các tàu chỉ huy (capital ship) gần bờ biển của đối phương. “Tàu đi biển” (seagoing vessel) đầu tiên được thiết kế để phóng lôi tự hành Whitehead là HMS Lightning trọng tải 33 tấn vào năm 1876. Nó được trang bị hai vòng đai (drop collar) để phóng những vũ khí này, chúng được thay thế vào năm 1879 bằng một ống phóng lôi (torpedo tube) duy nhất ở mũi tàu. Đến những năm 1880, loại tàu này đã phát triển thành những con tàu nhỏ 50-100 tấn, đủ nhanh để né tránh các “tàu trực chiến” (picket boat) của đối phương.

Lúc đầu, mối đe dọa từ một cuộc tấn công của tàu phóng lôi đối với một hạm đội chiến đấu được coi là chỉ tồn tại khi thả neo, nhưng khi các tàu phóng lôi và ngư lôi có tốc độ nhanh hơn và tầm xa hơn được phát triển, mối đe dọa sẽ mở rộng sang hoạt động tuần biển. Để đối phó với mối đe dọa mới này, những tàu trực chiến có trang bị pháo mạnh hơn được gọi là “tàu đánh bắt” (catcher) đã được chế tạo để hộ tống hạm đội chiến đấu trên biển. Chúng cần khả năng đi biển và sức bền đáng kể để hoạt động cùng hạm đội chiến đấu, và khi vốn dĩ chúng đã trở nên lớn hơn, chúng trở thành “tàu khu trục phóng lôi” (torpedo boat destroyer), và trong Thế chiến I, phần lớn được gọi là “tàu khu trục” (destroyer) trong tiếng Anh. Từ gốc “anti-torpedo boat ” (tàu chống ngư lôi) của loại tàu này được giữ nguyên nghĩa gốc của nó trong các ngôn ngữ khác, bao gồm tiếng Pháp (contre-torpilleur), tiếng Ý (cacciatorpediniere), tiếng Bồ Đào Nha (contratorpedeiro), tiếng Séc (torpédoborec), tiếng Hy Lạp (antitorpiliko, αντιτορπιλικό), Tiếng Hà Lan (torpedobootjager) và cho đến Thế chiến II, tiếng Ba Lan (kontrtorpedowiec).

Một khi các tàu khu trục không chỉ đơn thuần là tàu đánh bắt (catcher) bảo vệ một khu neo đậu, người ta nhận ra rằng chúng còn lý tưởng để đảm nhiệm vai trò tấn công chính tàu phóng lôi, vì vậy chúng cũng được trang bị ống phóng lôi ngoài súng chống ngư lôi. Vào thời điểm đó, và ngay cả trong Thế chiến I, chức năng duy nhất của các tàu khu trục là bảo vệ hạm đội chiến đấu khỏi các cuộc tấn công bằng ngư lôi của đối phương và thực hiện các cuộc tấn công như vậy vào thiết giáp hạm của đối phương. Nhiệm vụ hộ tống các đoàn thương mại vẫn còn trong tương lai.

Thiết kế ban đầu

Một sự phát triển quan trọng đến với việc đóng HMS Swift vào năm 1884, sau đó được đổi tên thành TB 81. Đây là một tàu phóng lôi lớn (137 tấn) với 4 pháo bắn nhanh 47 mm và 3 ống phóng lôi. Với tốc độ 23,75 hl/g (43,99 km/h), trong khi vẫn chưa đủ nhanh để đối phó với tàu phóng lôi của đối phương, con tàu ít nhất cũng có vũ khí trang bị để đối phó với chúng.

Một tiền thân khác của tàu khu trục phóng lôi là tàu phóng lôi của Nhật Bản Kotaka (Falcon), được đóng vào năm 1885. Được thiết kế theo các thông số kỹ thuật của Nhật Bản và đặt hàng từ nhà máy đóng tàu Isle of Dogs, London Yarrow vào năm 1885, nó được vận chuyển theo từng bộ phận đến Nhật Bản, nơi nó được lắp ráp và hạ thủy vào năm 1887. Con tàu dài 50 m được trang bị 4 khẩu pháo đơn bắn nhanh 37 mm và 6 ống phóng lôi, đạt tốc độ 19 hl/g (35 km/h), và ở trọng lượng 203 tấn, là tàu phóng lôi lớn nhất được chế tạo cho đến thời điểm đấy. Trong cuộc thử nghiệm vào năm 1889, Kotaka đã chứng minh rằng nó có thể vượt quá vai trò phòng thủ bờ biển và có khả năng đi cùng các tàu chiến lớn hơn trên biển cả. Nhà máy đóng tàu Yarrow, nhà chế tạo các bộ phận cho Kotaka, được coi là “Nhật Bản đã phát minh ra tàu khu trục một cách hiệu quả”.

“Tàu thông báo” (aviso) Greif của Đức, được hạ thủy vào năm 1886, được thiết kế như một “torpedojäger” (thợ săn ngư lôi), nhằm mục đích che chắn hạm đội trước các cuộc tấn công của tàu phóng lôi. Con tàu lớn hơn đáng kể so với các tàu phóng lôi cùng thời, có lượng giãn nước khoảng 2.266 tấn, với trang bị pháo 105 mm và pháo 37 mm ổ quay Hotchkiss.

Tàu pháo phóng lôi (torpedo gunboat)

Loại tàu đầu tiên được thiết kế cho mục đích rõ ràng là săn tìm và tiêu diệt tàu phóng lôi (torpedo boat) là tàu pháo phóng lôi (torpedo gunboat). Về cơ bản là các tàu tuần dương rất nhỏ, tàu pháo phóng lôi được trang bị ống phóng lôi và vũ khí trang bị đầy đủ, nhằm mục đích săn lùng các tàu thuyền nhỏ hơn của đối phương. Vào cuối những năm 1890, các tàu pháo phóng lôi đã trở nên lỗi thời bởi những tàu khu trục phóng lôi (torpedo boat destroyer) cùng thời với tốc độ nhanh hơn nhiều.

Ví dụ đầu tiên về điều này là HMS Rattlesnake, được thiết kế bởi Nathaniel Barnaby vào năm 1885, và được đưa vào sử dụng để đối phó với nỗi sợ hãi trong Chiến tranh Nga. Pháo hạm được trang bị ngư lôi và được thiết kế để săn tìm và tiêu diệt các tàu phóng lôi nhỏ hơn. Dài chính xác 61 m và rộng 7,0 m, nó có lượng giãn nước 550 tấn. Được chế tạo bằng thép, Rattlesnake không được bọc giáp ngoại trừ boong bảo vệ dày 3⁄4 inch. Nó được trang bị một pháo nạp đạn cỡ nòng 4 inch/25 pounder (đạn nặng 25 pao), 6 khẩu QF 3 pounder và 4 ống phóng lôi 360 mm, được bố trí với 2 ống cố định ở mũi tàu và một bộ thả ngư lôi (torpedo dropping carriage) mỗi bên. 4 quả ngư lôi sẽ được nạp lại.

Tiếp theo là một số lớp tàu pháo phóng lôi (torpedo gunboat), bao gồm lớp Grasshopper, lớp Sharpshooter, lớp Alarm và lớp Dryad – tất cả đều được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh trong những năm 1880 và 1890. Vào những năm 1880, Hải quân Chile đã đặt hàng đóng 2 tàu pháo phóng lôi lớp Almirante Lynch từ xưởng đóng tàu Laird Brothers của Anh, công ty chuyên đóng loại tàu này. Điểm mới lạ là một trong những tàu phóng lôi lớp Almirante Lynch này đã đánh chìm được tàu phóng lôi Blanco Encalada bằng ngư lôi tự hành trong Trận chiến vịnh Caldera năm 1891, do đó vượt qua chức năng chính của nó là săn tìm tàu phóng lôi.

Fernando Villaamil, sĩ quan cấp hai của Bộ Hải quân Tây Ban Nha, đã thiết kế tàu pháo phóng lôi của riêng mình để chống lại mối đe dọa từ tàu phóng lôi. Ông đã yêu cầu một số nhà máy đóng tàu của Anh gửi các đề xuất có khả năng đáp ứng các thông số kỹ thuật này. Năm 1885, Hải quân Tây Ban Nha đã chọn thiết kế do xưởng đóng tàu của James và George Thomson thuộc Clydebank đệ trình. Tàu khu trục (Destroyer trong tiếng Tây Ban Nha) được đặt lườn vào cuối năm, hạ thủy vào năm 1886 và đưa vào hoạt động năm 1887. Một số tác giả coi nó là “tàu khu trục đầu tiên” (the first destroyer) từng được chế tạo.

Nó có lượng giãn nước 348 tấn, và là tàu chiến đầu tiên được trang bị động cơ kép mở rộng tạo ra 3.784 hp (2.822 kW), cho tốc độ tối đa 22,6 hl/g (41,9 km/h), khiến nó trở thành một trong những những con tàu nhanh hơn trên thế giới vào năm 1888. Nó được trang bị một khẩu đại liên 90 mm Hontoria do Tây Ban Nha thiết kế, 4 khẩu Nordenfelt 57 mm (6 pounder), 2 khẩu 37 mm (3 pounder) Hotchkiss và 2 ống phóng lôi 380 mm Schwartzkopff. Con tàu mang theo 3 quả ngư lôi cho mỗi ống. Nó mang theo một thủy thủ đoàn gồm 60 người.

Xét về trang bị pháo, tốc độ và kích thước, thiết kế chuyên dụng để đuổi theo tàu phóng lôi và khả năng hoạt động trên biển của nó, Destructor là tiền thân quan trọng của tàu khu trục phóng lôi (important precursor to the torpedo boat destroyer).

Phát triển các tàu khu trục hiện đại

Các lớp tàu đầu tiên được định danh chính thức là “tàu khu trục phóng lôi” TBD (torpedo boat destroyer) là lớp Daring gồm 2 tàu và lớp Havock gồm 2 tàu của Hải quân Hoàng gia Anh.

Các thiết kế tàu pháo phóng lôi (torpedo gunboat) ban đầu thiếu tầm hoạt động và tốc độ để theo kịp hạm đội mà chúng được cho là phải bảo vệ. Năm 1892, vị Hải vương thứ ba, Chuẩn đô đốc John “Jacky” Fisher ra lệnh phát triển một loại tàu mới được trang bị nồi hơi nước mới và pháo cỡ nhỏ bắn nhanh. 6 chiếc tàu với các thông số kỹ thuật do Bộ Hải quân lưu hành đã được đặt hàng ban đầu, bao gồm 3 thiết kế khác nhau, mỗi chiếc được sản xuất bởi một công ty đóng tàu khác nhau: HMS Daring và HMS Decoy từ John I. Thornycroft & Company, HMS Havock và HMS Hornet từ Yarrows, và HMS Ferret và HMS Lynx từ Laird, Son & Company.

Tất cả các tàu khu trục phóng lôi (torpedo boat destroyer) này đều có phần mũi dạng lưng rùa (vồng lên), đặc trưng của những chiếc TBD đời đầu của Anh. HMS Daring và HMS Decoy đều do Thornycroft chế tạo, có lượng giãn nước 260 tấn (đầy tải 287,8 tấn) và dài 56 m. Chúng được trang bị một khẩu súng 12 pounder và 3 khẩu súng 6 pounder, với một ống phóng lôi 18 in cố định ở mũi tàu cộng với 2 ống phóng lôi khác trên một giá 2 ống phóng dạng quay ở phía sau. Sau đó, ống phóng lôi ở mũi tàu được loại bỏ và thay vào đó là 2 khẩu pháo 6 pounder khác được bổ sung. Chúng tạo ra 4.200 mã lực từ một cặp nồi hơi ống nước Thornycroft, cho tốc độ tối đa 27 hl/g, mang lại tầm hoạt động và tốc độ di chuyển hiệu quả cho một hạm đội chiến đấu. Điểm chung với những chiếc tàu Thornycroft đầu tiên sau đó, chúng có đuôi dốc và bánh lái đôi.

Hải quân Pháp, một nước sử dụng nhiều tàu phóng lôi, đã chế tạo tàu khu trục phóng lôi đầu tiên vào năm 1899, với lớp Durandal ‘torpilleur d’escadre’. Hoa Kỳ đưa vào biên chế tàu khu trục phóng lôi đầu tiên của mình, USS Bainbridge, Tàu khu trục số 1 (Destroyer No. 1), vào năm 1902 và đến năm 1906, đã có 16 tàu khu trục phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ.

Những cải tiến tiếp theo

Các thiết kế tàu khu trục phóng lôi tiếp tục phát triển vào khoảng đầu thế kỷ XX theo một số cách quan trọng. Đầu tiên là sự ra đời của tuabin hơi nước. Cuộc trình diễn bất thường ngoạn mục của tàu Turbinia chạy bằng tuabin tại Cuộc duyệt xét Hải quân Spithead năm 1897, đáng kể, nó có kích thước tàu phóng lôi, khiến Hải quân Hoàng gia Anh đặt hàng một mẫu tàu khu trục chạy bằng tuabin, HMS Viper năm 1899. Đây là tàu chiến chạy bằng tuabin đầu tiên thuộc bất kỳ hình thức nào và đạt được tốc độ đáng kể 34 hl/g (63 km/h) khi thử nghiệm trên biển. Đến năm 1910, tuabin đã được tất cả hải quân áp dụng rộng rãi cho các tàu nhanh hơn của họ.

Sự phát triển thứ hai là việc thay thế boong lưng rùa kiểu tàu phóng lôi bằng một phần mũi nâng cao cho các tàu khu trục lớp River mới được đóng vào năm 1903, cung cấp khả năng bám biển tốt hơn cũng như có nhiều không gian hơn bên dưới boong.

Tàu chiến đầu tiên chỉ sử dụng nhiên liệu đẩy dầu là tàu khu trục phóng lôi HMS Spiteful của Hải quân Hoàng gia Anh, sau các cuộc thử nghiệm vào năm 1904, mặc dù sự lỗi thời của than làm nhiên liệu trong các tàu chiến của Anh đã bị trì hoãn do tính sẵn có của nó. Các lực lượng hải quân khác cũng sử dụng dầu, ví dụ như USN với lớp Paulding năm 1909. Bất chấp sự đa dạng này, các tàu khu trục đã áp dụng một kiểu gần như tương tự. Thân tàu dài và hẹp, với mớn nước tương đối nông. Mũi tàu hoặc được nâng cao lên hoặc được che phủ dưới một tấm dạng lưng rùa; bên dưới là không gian của thủy thủ đoàn, kéo dài từ 1⁄4 đến 1/3 dọc theo thân tàu. Phía sau không gian của thủy thủ đoàn là không gian động cơ nhiều như công nghệ thời đó cho phép: một số nồi hơi và động cơ hoặc tuabin. Phía trên boong, một hoặc nhiều súng bắn nhanh được bố trí ở mũi tàu, phía trước đài chỉ huy; một số khác được gắn trên tàu phía giữa và phía lái. Hai ống phóng (sau này, nhiều ống phóng) thường được thấy ở phần giữa của tàu.

Trong khoảng thời gian từ năm 1892 đến năm 1914, các tàu khu trục trở nên lớn hơn rõ rệt: ban đầu là 275 tấn với chiều dài 50 m cho lớp tàu khu trục phóng lôi đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Anh, cho đến Thế chiến I với kích thước 91 m. Các tàu khu trục dài có lượng giãn nước 1.000 tấn không phải là hiếm. Tuy nhiên, việc xây dựng vẫn tập trung vào việc đưa các động cơ lớn nhất có thể vào một thân tàu nhỏ, dẫn đến kết cấu hơi mỏng manh. Thường thì thân tàu được đóng bằng thép cường độ cao chỉ dày 3,2 mm.

Đến năm 1910, tàu phóng lôi chuyển hướng chạy bằng hơi nước (nghĩa là không chạy bằng thủy lực) đã trở nên dư thừa như một loại riêng biệt. Tuy nhiên, Đức vẫn tiếp tục đóng những con tàu như vậy cho đến khi kết thúc Thế chiến I, mặc dù đây là những khinh hạm ven biển. Trên thực tế, Đức không bao giờ phân biệt giữa hai loại, cho chúng số hiệu cờ hiệu trong cùng một sê-ri và không bao giờ đặt tên là các tàu khu trục. Cuối cùng, thuật ngữ “tàu phóng lôi” (torpedo boat) được gắn với một loại tàu khá khác – loại MTB (motor torpedo boat) điều khiển động cơ thủy lực rất nhanh.

Sử dụng ban đầu trong Thế chiến I

Các hải quân ban đầu chế tạo các tàu khu trục phóng lôi (torpedo boat destroyer) để bảo vệ chống lại các tàu phóng lôi (torpedo boat), nhưng các đô đốc đã sớm đánh giá cao tính linh hoạt của các tàu đa năng, nhanh. Phó đô đốc Sir Baldwin Walker giao nhiệm vụ tàu khu trục cho Hải quân Hoàng gia:
– sàng lọc sự tiến công của một hạm đội khi tàu phóng lôi (torpedo craft) đối phương sắp khai hỏa;
– tìm kiếm một bờ biển thù địch mà một hạm đội có thể đi qua;
– theo dõi cảng của kẻ thù nhằm mục đích quấy rối tàu phóng lôi (torpedo craft) của anh ta và ngăn cản sự trở lại của chúng;
– tấn công một hạm đội đối phương.

Các tàu khu trục ban đầu là nơi sinh sống cực kỳ chật chội, “không nghi ngờ gì nữa, là những tàu chiến đấu nguy nga… nhưng không thể chịu được thời tiết xấu”. Trong Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904, chỉ huy tàu khu trục phóng lôi Akatsuki của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã mô tả “là chỉ huy một tàu khu trục trong một thời gian dài, đặc biệt trong thời chiến… không được tốt cho sức khỏe”. Nói rằng ban đầu anh ta rất mạnh mẽ và khỏe mạnh, anh ta tiếp tục, “cuộc sống trên một tàu khu trục vào mùa đông, với thức ăn tồi tệ, không có tiện nghi, sẽ hủy hoại sức mạnh của những người mạnh nhất về lâu dài. Một tàu khu trục luôn khó chịu hơn những tàu khác và mưa, tuyết và nước biển kết hợp với nhau làm cho chúng ẩm ướt; trên thực tế, trong thời tiết xấu, không có nơi nào khô ráo để người ta có thể nghỉ ngơi trong chốc lát”.

Người chỉ huy tàu khu trục Nhật Bản kết thúc với câu: “Hôm qua, tôi đã nhìn mình trong gương rất lâu; tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy khuôn mặt gầy gò, đầy nếp nhăn và già như thể tôi đã ngoài năm mươi, quân phục không che đậy gì ngoài một bộ xương, và xương của tôi đầy bệnh thấp khớp”.

Năm 1898, Hải quân Hoa Kỳ chính thức phân loại USS Porter, một tàu thép dài 53 m, lượng giãn nước 165 tấn, là tàu phóng lôi (torpedo boat). Tuy nhiên, chỉ huy của nó, LT. John C. Fremont, đã mô tả con tàu là “… một khối lượng máy móc nhỏ gọn không dùng để giữ biển cũng như để sinh sống… vì năm phần bảy con tàu được vận chuyển bởi máy móc và nhiên liệu, trong khi hai phần bảy còn lại, phía mũi và phía lái là nơi ở của thủy thủ đoàn; sĩ quan ở phía trước và những người còn lại ở phía sau. Và ngay cả trong những không gian đó cũng được đặt động cơ neo, động cơ lái, ống dẫn hơi nước… khiến chúng nóng đến mức không thể chịu nổi ở các vùng nhiệt đới”.

Tham chiến lúc sơ khai

Việc sử dụng chính đầu tiên của tàu khu trục phóng lôi (torpedo boat destroyer) trong chiến đấu là trong cuộc tấn công bất ngờ của Nhật Bản nhằm vào hạm đội Nga đang neo đậu tại cảng Arthur khi mở đầu Chiến tranh Nga-Nhật vào ngày 8/2/1904.

Ba sư đoàn tàu khu trục tấn công hạm đội Nga tại cảng, bắn tổng cộng 18 quả ngư lôi. Tuy nhiên, chỉ có 2 thiết giáp hạm của Nga, Tsesarevich và Retvizan, và 1 tàu tuần dương được bảo vệ, Pallada, bị hư hại nghiêm trọng do việc bố trí lưới phóng lôi đúng cách. Tsesarevich, kỳ hạm của Nga, đã triển khai lưới, với ít nhất 4 ngư lôi của đối phương “treo lên” trong đó, và các tàu chiến khác cũng được cứu khỏi bị hư hại thêm bởi lưới của chúng.

Trong khi các cuộc giao chiến bằng tàu vốn rất khan hiếm trong Thế chiến I, các tàu khu trục hầu như liên tục tham gia các hoạt động đột kích và tuần tra. Phát súng đầu tiên của cuộc chiến trên biển được bắn vào ngày 5/8/1914 bởi HMS Lance, một trong những Đội tàu Khu trục số 3, trong một cuộc giao tranh với tàu đặt mìn của Đức – Königin Luise.

Các tàu khu trục đã tham gia vào các cuộc giao tranh thúc đẩy Trận chiến Heligoland Bight, và đảm nhận một loạt các vai trò trong Trận Gallipoli, hoạt động như vận chuyển quân và tàu hỗ trợ hỏa lực, cũng như vai trò sàng lọc hạm đội của chúng. Hơn 80 tàu khu trục của Anh và 60 tàu phóng lôi của Đức đã tham gia Trận chiến Jutland, trong đó có các cuộc tấn công bằng xuồng nhỏ giữa các hạm đội chính và một số cuộc tấn công liều lĩnh của các tàu khu trục không được hỗ trợ vào các tàu chỉ huy (capital ship). Jutland cũng kết thúc bằng một hành động hỗn độn trong đêm giữa Hạm đội Biển khơi của Đức và một phần của các tàu khu trục Anh.

Mối đe dọa phát triển từ Thế chiến I với sự phát triển của tàu ngầm, hay U-boat. Chiếc tàu ngầm có khả năng ẩn nấp khỏi làn đạn và áp sát dưới nước để bắn ngư lôi. Các tàu khu trục thời kỳ đầu chiến tranh có tốc độ và vũ khí để đánh chặn tàu ngầm trước khi chúng bị bắn chìm, bằng súng hoặc bằng cách húc. Các tàu khu trục cũng có mớn nước đủ nông để ngư lôi khó đánh trúng.

Mong muốn tấn công tàu ngầm dưới nước đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của tàu khu trục trong chiến tranh. Chúng nhanh chóng được trang bị mũi tàu mạnh mẽ để đâm, và lượng nổ ngầm, và tai nghe để xác định mục tiêu tàu ngầm. Thương vong tàu ngầm đầu tiên được ghi nhận do một tàu khu trục là U-19 của Đức, bị HMS Badger đâm vào ngày 29/10/1914. Trong khi U-19 chỉ bị hư hại, tháng sau HMS Garry đã đánh chìm thành công U-18. Vụ đánh chìm đầu tiên bằng lượng nổ ngầm là vào ngày 4/12/1916, khi UC-19 bị HMS Llewellyn đánh chìm.

Có mối đe dọa từ tàu ngầm có nghĩa là nhiều tàu khu trục đã dành thời gian của chúng để tuần tra chống lại tàu ngầm. Khi Đức áp dụng tác chiến tàu ngầm không hạn chế vào tháng 1/1917, các tàu khu trục được gọi để hộ tống các đoàn tàu buôn. Các tàu khu trục của Hải quân Mỹ là một trong những tàu Mỹ đầu tiên được điều động khi Mỹ tham chiến, và một đội tàu khu trục Nhật Bản thậm chí còn tham gia các cuộc tuần tra của Đồng minh ở Địa Trung Hải. Nhiệm vụ tuần tra còn lâu mới an toàn. Trong số 67 tàu khu trục của Anh bị mất trong chiến tranh, các vụ va chạm chiếm 18 chiếc, trong khi 12 chiếc bị đắm.

Khi chiến tranh kết thúc, công nghệ tối tân được đại diện bởi lớp W của Anh.

Gia đoạn 1918-1945

Xu hướng trong Thế chiến I là hướng tới các tàu khu trục lớn hơn với vũ khí trang bị nặng hơn. Một số cơ hội bắn vào các tàu chiến vốn đã bị bỏ lỡ trong suốt thế chiến, bởi vì các tàu khu trục đã sử dụng hết ngư lôi của chúng trong một đợt tấn công ban đầu. Các lớp tàu V và W của Anh trong thời kỳ cuối thế chiến đã tìm cách giải quyết vấn đề này bằng cách lắp 6 ống phóng lôi vào hai giá ba, thay vì bốn hoặc hai trên các mẫu trước đó. Chữ ‘V’ và ‘W’ đã thiết lập tiêu chuẩn xây dựng tàu khu trục đủ mạnh vào những năm 1920.

Mặt khác, 2 tàu khu trục Romania Mărăști và Mărășești có hỏa lực mạnh nhất trong số các tàu khu trục trên thế giới trong suốt nửa đầu những năm 1920. Điều này phần lớn là do, từ khi đưa vào hoạt động năm 1920 đến năm 1926, chúng vẫn giữ được vũ khí trang bị khi phục vụ trong Hải quân Ý với tư cách là tàu tuần dương trinh sát (esploratori). Khi được Romania đặt hàng lần đầu vào năm 1913, các thông số kỹ thuật của Romania hình dung ra 3 khẩu pháo 120 mm, cỡ nòng cuối cùng sẽ được sử dụng làm tiêu chuẩn cho các tàu khu trục Ý trong tương lai. Được trang bị 3 pháo 152 mm và 4 pháo 76 mm sau khi được hoàn thiện với vai trò là tàu tuần dương trinh sát (scout cruiser), hai tàu chiến chính thức được Hải quân Romania phân loại lại thành tàu khu trục. Do đó, hai tàu chiến Romania là những tàu khu trục có hỏa lực mạnh nhất thế giới trong suốt thời kỳ giữa các cuộc chiến. Tính đến năm 1939, khi Thế chiến II bắt đầu, pháo tàu của chúng, mặc dù đã thay đổi, vẫn gần với tiêu chuẩn tuần dương hạm, lên tới 9 khẩu hạng nặng (5 khẩu 120 mm và 4 khẩu 76 mm). Ngoài ra, chúng vẫn giữ lại hai ống phóng lôi 457 mm đôi cũng như 2 súng máy, cộng với khả năng mang tới 50 quả thủy lôi.

Sự đổi mới lớn tiếp theo đến với lớp Fubuki của Nhật Bản hay còn gọi là “special type” (loại đặc biệt), được thiết kế vào năm 1923 và chuyển giao vào năm 1928. Thiết kế này ban đầu được chú ý nhờ trang bị vũ khí mạnh mẽ gồm 6 khẩu pháo 127 mm và 3 bệ phóng lôi. Lô thứ hai của lớp này có các tháp pháo góc cao cho tác chiến phòng không và ngư lôi “Long Lance” Type 93 610 mm chạy bằng nhiên liệu oxy. Lớp Hatsuharu năm 1931 sau này đã cải tiến hơn nữa khả năng trang bị ngư lôi bằng cách cất giữ ngư lôi dự trữ của nó gần với cấu trúc thượng tầng, cho phép nạp lại trong vòng 15 phút.

Hầu hết các quốc gia khác đã trả lời bằng những con tàu lớn hơn tương tự. Lớp Porter của Hoa Kỳ sử dụng 2 khẩu pháo 127 mm, và các lớp Mahan và lớp Gridley tiếp theo (sau năm 1934) đã tăng số lượng ống phóng lôi tương ứng lên 12 và 16.

Tại Địa Trung Hải, việc Hải quân Ý đóng các tàu tuần dương hạng nhẹ rất nhanh thuộc lớp Condottieri đã thúc đẩy người Pháp sản xuất các thiết kế “tàu khu trục đặc biệt” (exceptional destroyer). Người Pháp từ lâu đã quan tâm đến các tàu khu trục lớn, với lớp Chacal năm 1922, lượng giãn nước hơn 2.000 tấn và mang theo pháo 130 mm; thêm 3 lớp tương tự được sản xuất vào khoảng năm 1930. Lớp Fantasque năm 1935 mang theo 5 khẩu pháo 138 mm và 9 ống phóng lôi, nhưng có thể đạt tốc độ 45 hl/g (83 km/h), vẫn là tốc độ kỷ lục đối với một chiếc tàu hơi nước và cho bất kỳ tàu khu trục nào. Các tàu khu trục của Ý gần như nhanh nhẹn, hầu hết các thiết kế của Ý những năm 1930 đều có tốc độ trên 38 hl/g (70 km/h), đồng thời mang ngư lôi và 4 hoặc 6 pháo 120 mm.

Đức bắt đầu chế tạo lại các tàu khu trục trong những năm 1930 như một phần trong chương trình tái vũ trang của Hitler. Người Đức cũng ưa chuộng các tàu khu trục lớn, nhưng trong khi Type 1934 ban đầu có trọng lượng giãn nước hơn 3.000 tấn, vũ khí trang bị của chúng tương đương với các tàu nhỏ hơn. Điều này đã thay đổi so với Type 1936 trở đi, nó lắp pháo mạnh – 150 mm. Các tàu khu trục của Đức cũng sử dụng máy hơi nước áp suất cao sáng tạo: trong khi điều này lẽ ra sẽ giúp ích cho hiệu quả của chúng, nó thường dẫn đến các vấn đề về cơ khí.

Khi việc tái vũ trang của Đức và Nhật trở nên rõ ràng, hải quân Anh và Mỹ tập trung một cách có ý thức vào việc chế tạo các khinh hạm hơn nhưng nhiều hơn so với các tàu khu trục mà các quốc gia khác đang sử dụng. Người Anh đã chế tạo một loạt tàu khu trục (từ lớp “A” đến lớp “I”) với lượng giãn nước tiêu chuẩn khoảng 1.400 tấn, có 4 pháo 119 mm và 8 ống phóng lôi; lớp Benson của Mỹ năm 1938 có kích thước tương tự, nhưng mang theo 5 pháo 127 mm và 10 ống phóng lôi. Nhận thấy nhu cầu về vũ khí trang bị nặng hơn, người Anh đã chế tạo lớp Tribal năm 1936 (đôi khi được gọi là Afridi theo tên một trong hai tàu dẫn đầu). Những con tàu này có lượng giãn nước 1.850 tấn và được trang bị 8 pháo 119 mm trong 4 tháp pháo đôi và 4 ống phóng lôi. Tiếp theo là các tàu khu trục lớp “J” và lớp “L”, với 6 pháo 119 mm trong các tháp pháo đôi và 8 ống phóng lôi.

Các khí tài chống ngầm bao gồm sonar (hoặc ASDIC), mặc dù việc huấn luyện sử dụng chúng là không quan trọng. Vũ khí chống ngầm ít thay đổi, và vũ khí ném về phía trước, một nhu cầu được thừa nhận trong Thế chiến I, đã không có tiến bộ.

Tham chiến về sau

Trong những năm 1920 và 1930, các tàu khu trục thường được triển khai tới các khu vực căng thẳng ngoại giao hoặc thảm họa nhân đạo. Các tàu khu trục của Anh và Mỹ thường xuất hiện trên bờ biển và các con sông của Trung Quốc, thậm chí cung cấp cho các bên đổ bộ để bảo vệ các lợi ích thuộc địa.

Đến Thế chiến II, mối đe dọa lại bùng phát. Tàu ngầm hiệu quả hơn, và máy bay đã trở thành vũ khí quan trọng của chiến tranh hải quân. Một lần nữa các tàu khu trục của hạm đội được trang bị thời kỳ đầu chiến tranh lại yếu kém để chống lại các mục tiêu mới này. Chúng được trang bị súng phòng không hạng nhẹ, radar và vũ khí ASW phóng về phía trước, bên cạnh các loại pháo đa năng, lượng nổ ngầm và ngư lôi hiện có. Kích thước ngày càng tăng cho phép cải tiến việc bố trí bên trong các máy đẩy với khoang để tàu ít có khả năng bị đánh chìm hơn chỉ vì một cú đánh. Trong hầu hết các trường hợp, ngư lôi và/hoặc vũ khí trang bị súng lưỡng dụng đã được giảm bớt để trang bị vũ khí phòng không và chống ngầm mới. Vào thời điểm này, các tàu khu trục đã trở thành những tàu lớn, đa năng, những mục tiêu đắt giá theo đúng nghĩa của chúng. Do đó, thương vong trên các tàu khu trục là một trong những mức cao nhất. Trong Hải quân Hoa Kỳ, đặc biệt là trong Thế chiến II, các tàu khu trục được gọi là lon thiếc (tin can) do lớp giáp nhẹ của chúng so với thiết giáp hạm (battleship) và tàu tuần dương (cruiser).

Nhu cầu về số lượng lớn các tàu chống ngầm (anti-submarine ship) đã dẫn đến sự ra đời của các tàu chiến chống ngầm chuyên dụng (specialized anti-submarine warship) nhỏ hơn và rẻ hơn được gọi là tàu hộ tống (corvette) và khinh hạm (frigate) của Hải quân Hoàng gia Anh và các tàu khu trục hộ tống (destroyer escort) của Hải quân Hoa Kỳ. Một chương trình tương tự đã được người Nhật bắt đầu khá muộn. Những con tàu này có kích thước và lượng giãn nước của các tàu khu trục phóng lôi (torpedo boat destroyer) ban đầu mà tàu khu trục đương thời đã phát triển từ đó.

Hậu Thế chiến II

Một số tàu khu trục thông thường được hoàn thiện vào cuối những năm 1940 và 1950 được chế tạo dựa trên kinh nghiệm thời chiến. Các tàu này lớn hơn đáng kể so với các tàu thời chiến và có pháo chính hoàn toàn tự động, máy móc thiết bị, radar, sonar và vũ khí chống tàu ngầm như súng cối Squid. Các ví dụ bao gồm lớp Daring của Anh, lớp Forrest Sherman của Hoa Kỳ và các tàu khu trục lớp Kotlin của Liên Xô.

Một số tàu cổ điển trong Thế chiến II đã được hiện đại hóa để phục vụ tác chiến chống ngầm, và để kéo dài thời gian phục vụ của chúng, để tránh phải đóng những con tàu mới tinh (đắt tiền). Ví dụ như chương trình FRAM I của Hoa Kỳ và các khinh hạm Type 15 của Anh được chuyển đổi từ các tàu khu trục của hạm đội.

Sự ra đời của tên lửa đất đối không và tên lửa đất đối đất, chẳng hạn như Exocet, vào đầu những năm 1960 đã thay đổi chiến tranh hải quân. Các tàu khu trục tên lửa dẫn đường (DDG trong Hải quân Hoa Kỳ) được phát triển để mang các loại vũ khí này và bảo vệ hạm đội khỏi các mối đe dọa trên không, tàu ngầm và trên mặt nước. Các ví dụ bao gồm lớp Kashin của Liên Xô, lớp County của Anh và lớp Charles F. Adams của Hoa Kỳ.

Các tàu khu trục của thế kỷ XXI có xu hướng thể hiện các đặc điểm như các mặt phẳng lớn, không có góc cạnh và đường nứt phức tạp để giữ cho tiết diện của radar nhỏ, hệ thống phóng thẳng đứng để mang một số lượng lớn tên lửa ở trạng thái sẵn sàng khai hỏa và sàn đáp máy bay trực thăng và nhà chứa máy bay.

Các nhà khai thác

Hải quân Argentina: Vận hành 4 tàu khu trục lớp Almirante Brown và một tàu khu trục Type 42 được sửa đổi duy nhất.

Hải quân Hoàng gia Australia: Vận hành 3 tàu khu trục lớp Hobart. Chúng là những tàu chiến đầu tiên của Australia sử dụng Hệ thống chiến đấu Aegis và dựa trên các khinh hạm lớp Álvaro de Bazán của Tây Ban Nha.

– Hải quân Trung Quốc (PLAN): Khai thác 8 tàu khu trục lớp Renhai, 2 tàu khu trục lớp Luyang I, 6 tàu khu trục lớp Luyang II, hơn 18 tàu khu trục lớp Luyang III và 2 tàu khu trục lớp Luzhou. Trung Quốc cũng vận hành 2 tàu khu trục lớp Luhu, 1 tàu khu trục lớp Luhai và 4 tàu khu trục lớp Sovremenny thuộc các mẫu cũ hơn. Đáng chú ý là lớp Renhai (Type 055) được NATO và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ coi là tàu tuần dương vì trọng tải và khả năng của nó tương đương với tàu tuần dương lớp Ticonderoga.

Hải quân Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan): Vận hành 4 tàu khu trục lớp Kidd, mua từ Hoa Kỳ.

Hải quân Ai Cập: Vận hành một khu trục nhỏ (khinh hạm) đa năng FREMM mua từ Pháp và một tàu khu trục lớp Z duy nhất để sử dụng trong huấn luyện.

Hải quân Pháp: Vận hành 8 khinh hạm đa năng FREMM và 2 khinh hạm lớp Horizon. Hải quân Pháp không sử dụng thuật ngữ “tàu khu trục” mà là “tàu khu trục hạng nhất” (first-rate frigate) cho các loại tàu này, nhưng chúng được đánh dấu bằng mã thân tàu NATO “D”, xếp chúng vào loại tàu khu trục, trái ngược với “F” cho khinh hạm.

Hải quân Đức: Vận hành 3 khinh hạm lớp Sachsen và 3 khinh hạm lớp Baden-Württemberg. Những con tàu này được Đức chính thức phân loại là khinh hạm (frigate), nhưng được quốc tế coi là tàu khu trục do kích thước và khả năng.

Hải quân Hellenic: HS Velos (D-16), 1 tàu khu trục lớp Fletcher, vẫn hoạt động theo nghi thức do ý nghĩa lịch sử của nó.

Hải quân Ấn Độ đang vận hành 1 tàu khu trục lớp Visakhapatnam, 3 tàu khu trục lớp Kolkata, 3 tàu khu trục Delhi và 4 tàu khu trục lớp Rajput.

– Hải quân Cộng hòa Hồi giáo Iran vận hành 3 khinh hạm lớp Moudge. Những con tàu này được Iran xếp vào loại tàu khu trục, nhưng được quốc tế coi là khinh hạm hạng nhẹ (light frigate).

Hải quân Ý khai thác 2 tàu khu trục lớp Durand de la Penne và 2 tàu khu trục lớp Orizzonte.

Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản đang vận hành các tàu khu trục lớp Maya, lớp Atago và lớp Kongō, tất cả đều sử dụng hệ thống chiến đấu Aegis. Nhật Bản cũng vận hành 2 tàu lớp Hatakaze, 4 lớp Akizuki, 5 lớp Takanami, 9 lớp Murasame, 8 lớp Asagiri, 3 tàu khu trục lớp Hatsuyuki và 6 tàu khu trục lớp Abukuma, cũng như 3 tàu khu trục lớp Shimayuki để huấn luyện.

Hải quân Hàn Quốc đang vận hành một số lớp tàu khu trục bao gồm tàu ​​khu trục lớp Sejong the Great (KDX-III), lớp Chungmugong Yi Sun-shin (KDX-II) và tàu khu trục lớp Gwanggaeto the Great (KDX-I). KDX-III được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis, Goalkeeper CIWS, tên lửa hành trình Hyunmoo và tên lửa chống hạm Hae Sung.

Hải quân Hoàng gia Maroc vận hành 1 khinh hạm đa năng FREMM duy nhất đặt hàng từ Pháp.

Hải quân Hoàng gia Hà Lan vận hành 4 khinh hạm lớp De Zeven Provinciën. Những con tàu này được Hà Lan xếp vào loại khinh hạm (frigate), nhưng được quốc tế coi là tàu khu trục do kích thước và khả năng.

Hải quân Hoàng gia Na Uy vận hành 4 khinh hạm lớp Fridtjof Nansen. Những con tàu này được Na Uy chính thức phân loại là khinh hạm (frigate), nhưng được cả quốc tế và các sĩ quan của họ coi là tàu khu trục. Chúng mang theo hệ thống chiến đấu Aegis. Chúng là một lớp dưới của các tàu khu trục lớp Álvaro de Bazán của Tây Ban Nha.

Hải quân Pakistan vận hành 3 tàu khu trục lớp Tariq mua từ Vương quốc Anh.

– Hải quân Ba Lan: Tàu khu trục lớp Grom, ORP Blyskawica vẫn được đưa vào hoạt động theo nghi thức do ý nghĩa lịch sử của nó.

– Lực lượng Hải quân Romania vận hành Mărășești. Con tàu này được phân loại là tàu khu trục từ năm 1990 đến năm 2001, khi nó được phân loại lại thành khinh hạm (frigate). Không có lý do chính thức nào được đưa ra cho điều này và không có sự thay đổi nào về vũ khí hoặc khả năng, do đó vẫn thuộc loại tàu khu trục.

Hải quân Nga vận hành 2 tàu khu trục lớp Sovremenny (cộng thêm 1 trong thời gian tái trang bị/dự trữ kéo dài) và 8 tàu khu trục lớp Udaloy.

Hải quân Tây Ban Nha vận hành 5 khinh hạm lớp Álvaro de Bazán. Những con tàu này được Tây Ban Nha chính thức phân loại là khinh hạm (frigate), nhưng do kích thước và khả năng của chúng được quốc tế coi là tàu khu trục, thiết kế lấy các yếu tố từ các tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Mỹ và mang hệ thống chiến đấu Aegis, đồng thời lấy cảm hứng thiết kế cho các tàu khu trục lớp HobartFridtjof Nansen.

Hải quân Hoàng gia Thái Lan vận hành 1 tàu khu trục hộ tống lớp Cannon duy nhất được mua từ Hoa Kỳ để sử dụng trong huấn luyện.

Hải quân Hoàng gia Anh đang vận hành tàu khu trục tàng hình Type 45, hay lớp Daring, có lượng giãn nước khoảng 8.000 tấn. 6 tàu của lớp này đang hoạt động. Chúng được trang bị cho phiên bản Vương quốc Anh của Hệ thống tên lửa phòng không chính PAAMS (Principal Anti-Air Missile System) và radar SAMPSON của Hệ thống BAE.

Hải quân Hoa Kỳ đang vận hành 68 tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường (DDG) lớp Arleigh Burke đang hoạt động thuộc lớp dự kiến ​​gồm 89 chiếc và cũng có 2 tàu khu trục lớp Zumwalt đang hoạt động thuộc lớp dự kiến ​​gồm 3 chiếc, tất cả tính đến tháng 9/2022.

Các nhà điều hành cũ

– Hải quân Áo-Hung mất toàn bộ lực lượng hải quân khi Đế chế sụp đổ sau Thế chiến thứ nhất.

Hải quân Cộng hòa Nhân dân Ukraine mất toàn bộ lực lượng hải quân sau khi nước này tái hòa nhập vào Liên Xô năm 1921.

– Hải quân Estonia đã bán 2 tàu khu trục lớp Orfey và tàu khu trục lớp Izyaslav cho Peru vào năm 1933, để ngăn chặn việc họ bị Liên Xô bắt giữ.

– Hải quân Đế quốc Manchukuo chuyển tàu khu trục lớp Momo duy nhất của mình trở lại Nhật Bản vào năm 1942.

– Hải quân Bulgaria cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Ognevoy duy nhất vào năm 1963.

Hải quân Hoàng gia Đan Mạch cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Hunt cuối cùng vào năm 1965.

Hải quân Bồ Đào Nha cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Douro cuối cùng vào năm 1967.

Hải quân Israel cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Z cuối cùng vào năm 1972.

– Hải quân Dominica cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp H vào năm 1972.

Hải quân Việt Nam Cộng hòa chuyển tàu hộ tống lớp Edsall còn lại của mình cho Philippines vào năm 1975 sau khi Sài Gòn thất thủ.

Hải quân Nam Phi cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp W cuối cùng vào năm 1976.

– Hải quân Nam Tư cho ngừng hoạt động tàu khu trục duy nhất của mình, Split vào năm 1980.

Hải quân Thụy Điển đã cho ngừng hoạt động cả tàu khu trục lớp Halland và 4 tàu khu trục lớp Östergötland vào năm 1982 sau các cuộc đánh giá quốc phòng.

Hải quân Quốc gia Colombia đã cho ngừng hoạt động cả 2 tàu khu trục lớp Halland và tàu khu trục lớp Allen M. Sumner đơn độc vào năm 1986.

– Hải quân Quốc gia Uruguay cho ngừng hoạt động hộ tống tàu khu trục lớp Cannon cuối cùng vào năm 1991.

– Hộ tống tàu khu trục lớp Edsall đơn độc của Hải quân Quốc gia Tunisia đã bị hỏa hoạn phá hủy năm 1992.

– Hải quân Ecuador cho ngừng hoạt động hộ tống tàu khu trục lớp Dealey đơn độc vào năm 1994.

– Hải quân Nhân dân Việt Nam cho ngừng hoạt động hộ tống tàu khu trục duy nhất lớp Edsall vào năm 1997.

Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ đã cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Gosing cuối cùng vào năm 2000.

– Hải quân Ba Lan cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Kashin đơn độc vào năm 2003.

Hải quân Indonesia đã cho ngừng hoạt động tất cả 4 tàu hộ tống tàu khu trục lớp Claud Jones vào năm 2003.

Hải quân Hellenic cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Charles F. Adams cuối cùng vào năm 2004.

Hải quân Chile cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp County cuối cùng vào năm 2006.

– Hải quân Peru cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Daring cuối cùng (năm 1949) vào năm 2007.

– Hải quân Brazil cho ngừng hoạt động hộ tống tàu khu trục lớp Garcia cuối cùng vào năm 2008.

– Hải quân Bolivar của Venezuela đã cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Almirante Clemente cuối cùng vào năm 2011.

Hải quân Mexico đã ngừng hoạt động hộ tống tàu khu trục lớp Edsall cuối cùng vào năm 2015.

Hải quân Hoàng gia Canada đã cho ngừng hoạt động tàu khu trục lớp Iroquois cuối cùng vào năm 2017.

Hải quân Philippines đã ngừng hoạt động hộ tống tàu khu trục lớp Cannon cuối cùng vào năm 2018.

Sự phát triển tương lai

Hải quân Brazil có kế hoạch đóng tàu khu trục 7.000 tấn sau khi giao các tàu khu trục mới và TKMS đã giới thiệu cho Hải quân tàu khu trục phòng không MEKO A-400 7.200 tấn hiện đại nhất, phiên bản cập nhật của khinh hạm lớp F-125 của Đức. Sự tương đồng giữa các dự án và tỷ lệ tương đồng cao giữa các yêu cầu cũng là yếu tố quyết định cho chiến thắng của tập đoàn.

– Hải quân Trung Quốc (PLAN) đang bổ sung các tàu khu trục Type 052DType 055 cho hải quân của mình.

Hải quân Pháp đang bổ sung các khinh hạm đa năng FREMM vào hạm đội của họ.

Hải quân Đức hiện đang đóng các khinh hạm lớp F-125. Chúng nhằm thay thế các khinh hạm lớp Bremen đã cũ. Ngoài ra, 6 tàu chiến đấu mặt nước đa nhiệm vụ được lên kế hoạch mang tên ‘Mehrzweckkampfschiff 180’ (MKS 180), sẽ có kích thước tàu khu trục và khả năng tương ứng (Chiều dài 163 m, lượng giãn nước 10.400 tấn).

– Hải quân Ấn Độ đang đóng 5 tàu khu trục lớp Visakhapatnam.

– Hải quân Cộng hòa Hồi giáo Iran hiện đang đóng 1-2 tàu khu trục lớp Khalije Fars.

– Hải quân Ý hiện đang nghiên cứu phát triển dự án DDX mới của họ để thay thế các tàu khu trục lớp Durand da le Penne của họ.

– Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản đang phát triển các kế hoạch cho Dự án cách mạng tàu khu trục DDR của mình.

– Hải quân Hàn Quốc đã bắt đầu phát triển các tàu khu trục KDX-IIA. Những con tàu này là phân lớp của các tàu khu trục lớp Chungmugong Yi Sun-shin của Hàn Quốc. Chiếc đầu tiên hoạt động từ năm 2019. Ngoài ra, các tàu khu trục lớp Sejong the Great đang được chế tạo.

– Hải quân Nga đã bắt đầu phát triển tàu khu trục lớp Lider. Công việc thiết kế vẫn đang diễn ra vào năm 2020.

– Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang phát triển tàu khu trục lớp TF2000 như một phần lớn nhất của dự án MILGEM. Tổng cộng có 7 tàu sẽ được đóng và sẽ chuyên về tác chiến phòng không.

– Hải quân Hoàng gia Anh đang trong giai đoạn đầu phát triển thiết kế tàu khu trục Type 83 sau khi công bố kế hoạch này trong sách trắng quốc phòng năm 2021. Lớp này được dự kiến ​​sẽ thay thế đội tàu khu trục Type 45 hiện tại bắt đầu vào cuối những năm 2030.

– Hải quân Hoa Kỳ, tính đến năm 2018, có 68 tàu khu trục Arleigh Burke đang hoạt động và 15 tàu đã lên kế hoạch hoặc đang được xây dựng. Các tàu mới sẽ là phiên bản nâng cấp “Flight III”. Hoa Kỳ cũng đã bắt đầu phát triển dự án tàu khu trục thế hệ tiếp theo DDG (X) của mình. Việc đóng con tàu đầu tiên dự kiến ​​sẽ bắt đầu vào năm 2028.

Tàu khu trục được bảo tồn

Một số quốc gia có tàu khu trục được bảo tồn như tàu bảo tàng. Bao gồm:
– HMAS Vampire (D11) ở Sydney, New South Wales.
– BNS Bauru, trước đây là USS McAnn (DE-179) ở Rio de Janeiro, Brazil.
– HMCS Haida (G63) ở Hamilton, Ontario.
– Tàu khu trục Anshan (101) ở Thanh Đảo, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Changchun (103) ở Rushan, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Taiyuan (104) ở Đại Liên, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Tây An (106) ở Vũ Hán, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Yinchuan (107) ở Ngân Xuyên, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Nam Kinh (131) ở Thượng Hải, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Jinan (105) ở Thanh Đảo, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Xining (108) ở Taizhou, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Nam Xương (163) ở Nam Xương, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Trùng Khánh (133) ở Thiên Tân, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Zunyi (134), ở Quý Châu, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Đại Liên (110) ở Sơn Đông, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Hefei (132) ở Sơn Đông, Trung Quốc.
– Tàu khu trục Zhanjiang (165) đã được lên kế hoạch để bảo quản ở Trung Quốc.
– Tàu khu trục Zhuhai (166) đã được lên kế hoạch để bảo quản ở Trung Quốc.
– ARC Boyaca (DE-16), trước đây là USS Hartley (DE-1029) ở Guatape, Colombia.
– Tàu khu trục Maille-Breze (D627) ở Nantes, Pháp.
– Tàu khu trục Mölders (D186) ở Wilhelmshaven, Đức.
– HS Velos (D-16), trước đây là USS Charrette (DD-581) ở Palaio Faliro, Hy Lạp.
– BRP Rajah Humabon (PS-11) ở Sangley Point, Philippines.
– ORP Blyskawica ở Gdynia, Ba Lan. Tàu khu trục được bảo tồn lâu đời nhất trên thế giới.
– Tàu khu trục Bespokoynyy ở Kronstadt, Nga.
– Tàu khu trục Smetlivy ở Sevastopol, Crimea, Nga.
– ROKS Jeong Ju (DD-925), trước đây là USS Rogers (DD-876) ở Dangjin, Hàn Quốc.
– HSwMS Småland (J19) ở Gothenburg, Thụy Điển.
– ROCS Te Yang (DDG-925), trước đây là USS Sarsfield (DD-837) tại thành phố Đài Nam, Đài Loan.
– TCG Gayret (D352), trước đây là USS Eversole (DD-789) ở Izmit, Thổ Nhĩ Kỳ.
– HMS Cavalier (R73) ở Chatham, Kent, Hoa Kỳ.
– USS Cassin Young (DD-793) ở Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ.
– USS The Sullivans (DD-537) ở Buffalo, New York, Hoa Kỳ.
– USS Kidd (DD-661) ở Baton Rouge, Louisiana, Hoa Kỳ.
– USS Slater (DE-766) ở Albany, New York, Hoa Kỳ.
– USS Stewart (DE-238) ở Galveston, Texas, Hoa Kỳ.
– USS Orleck (DD-886) ở Hồ Charles, Louisiana, Hoa Kỳ.
– USS Turner Joy (DD-951) ở Bremerton, Washington, Hoa Kỳ.
– USS Laffey (DD-724) ở Mount Pleasant, Nam Carolina, Hoa Kỳ.
– USS Edson (DD-946) ở Bay City, Michigan, Hoa Kỳ.
– USS Joseph P. Kennedy Jr. (DD-850) ở Fall River, Massachusetts, Hoa Kỳ.

Bảo tàng cũ

– HMCS Fraser (DDH 233) đã được trưng bày ở Bridgewater, Nova Scotia từ năm 1994 đến năm 2011. Sau đó bị loại bỏ do tình trạng xấu đi của nó.
– IJN Shiga đã được trưng bày tại thành phố Chiba, Nhật Bản từ năm 1964 đến năm 1998 khi nó bị loại bỏ do tình trạng xấu đi.
– ROKS Kang Won (DD-922) được trưng bày từ năm 2000 đến năm 2016, khi nó đóng cửa vì tình trạng xấu đi và sau đó bị loại bỏ.
– ROKS Jeong Buk (DD-916) đã được trưng bày tại Gangneung, Hàn Quốc từ năm 1999 đến năm 2021, khi nó bị loại bỏ.
– ORP Burza đã được trưng bày tại Gdynia, Ba Lan từ năm 1951 đến năm 1977, cho đến khi nó được Blyskawica thay thế vai trò của mình do tình trạng xấu đi, và sau đó bị loại bỏ.
– USS Barry (DD-933) đã được trưng bày ở Washington DC, Hoa Kỳ từ năm 1984 đến năm 2015, cho đến khi nó bị đóng cửa để nhường chỗ cho việc mở rộng cây cầu. Nó hiện đang nằm ở Philadelphia để chờ xử lý./.

Xem thêm: PHÂN LOẠI TÀU CHIẾN

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *