TÀU TUẦN DƯƠNG LỚP Kara, PROJECT 1134B

Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu: Communards, Mykolaiv
– Nhà khai thác: Hải quân Liên Xô, Nga
– Lớp trước: Kresta II
– Lớp sau: Kirov, Slava
– Được xây dựng: từ năm 1968 đến 1979
– Trong biên chế: 1971-2014
– Đã hoàn thành: 7
– Đã loại biên: 7
– Kiểu loại: Tàu tuần dương tên lửa dẫn đường
– Lượng giãn nước: 8.200-9.700 tấn
– Chiều dài: 173,2 m
– Độ rộng: 18,6 m
– Mớn nước: 6,7 m
– Động lực đẩy 2 trục COGAG, tua bin khí 4 x DN59, 2 x DS71, 120.000 mã lực (89.000 kW)
– Tốc độ: 34 hl/g (63 km/h)
– Tầm hoạt động: 9.000 hl (17.000 km)
– Thủy thủ đoàn: 380 người
– Vũ khí:
+ Tên lửa chống ngầm 2 × 4 Metel SS-N-14 ‘Silex’
+ 2 × bệ phóng tên lửa đất đối không Shtorm SA-N-3 ‘Goblet’ kép (80 tên lửa)
+ Bệ phóng tên lửa đất đối không Osa SA-N-4 ‘Gecko’ (40 tên lửa)
+ AK-726 76,2 mm (pháo chính – nòng kép)
+ 4 × CIWS AK-630 30 mm
+ Ống phóng ngư lôi 2 × 5 533 mm PTA-53-1134B
+ 2 × bệ phóng tên lửa chống ngầm RBU-6000
+ 2 × bệ phóng tên lửa chống ngầm RBU-1000
+ Tên lửa đất đối không 24 × S-300 SA-N-6 ‘Grumble’ (Azov)
– 1 x trực thăng Ka-25 hoặc Ka-27
– Sân đỗ trực thăng.

Lớp Kara, tên gọi của Liên Xô là Project 1134B Berkut B (đại bàng vàng), là một lớp tàu tuần dương tên lửa dẫn đường (tàu tác chiến chống ngầm cỡ lớn theo phân loại của Liên Xô) biên chế trong Hải quân Liên Xô. NATO liệt kê lớp này là “tàu tuần dương” chủ yếu nhờ hệ thống tên lửa chống hạm Metel (SS-N-14 Silex) có khả năng tấn công không chỉ tàu ngầm mà còn cả tàu mặt nước.

Những con tàu loại này là phiên bản phóng to của lớp Kresta II, với động cơ tuabin khí thay thế tuabin hơi nước. Những con tàu này được trang bị như những chiến hạm với các phương tiện chỉ huy, điều khiển và thông tin liên lạc được cải tiến. Đây là những tàu ASW chuyên dụng với khả năng phòng không đáng kể, bao gồm cả tên lửa đất đối không SA-N-3SA-N-4.

Các thông số kỹ thuật của lớp được ban hành vào năm 1964 với thiết kế được hoàn thiện vào cuối những năm 1960. Động cơ tuabin khí được chọn thay vì sử dụng hơi nước để đạt hiệu quả cao hơn và hoạt động êm ái hơn, và bởi vì nhà máy tuabin khí chính của Liên Xô có mối liên hệ lâu dài với các nhà máy đóng tàu Nikolayev.

Tàu tuần dương Azov được chế tạo như một tàu thử nghiệm hệ thống tên lửa SA-N-6 và cũng được trang bị radar Top Dome liên quan. Trong Chiến tranh Lạnh, con tàu bị “giữ chân” ở biển Đen.

Tàu trong lớp:
– Nikolayev (Николаев), biên chế 31/12/1971, loại biên 29/10/1992.
– Ochakov (Очаков), biên chế 4/11/1973, loại biên 12/8/2011.
– Kerch (Керчь), biên chế 25/12/1974, loại biên 15/2/2020.
– Azov (Азов), biên chế 25/12/1975, dừng hoạt động 30/5/1998,  tái trang bị lại ở Inkerman, Sevastopol năm 1999-2000.
– Petropavlovsk (Петропавловск), biên chế 29/12/1976, loại biên 26/2/1992, bán phế liệu năm 1996.
– Tashkent (Ташкент), biên chế 31/12/1977, loại biên 3/7/1992, bán phế liệu năm 1994.
– Vladivostok (Владивосток), tên cũ Tallinn (Таллин), biên chế 31/12/1979, loại biên 5/7/1994, bán phế liệu năm 1994./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *