LỰC LƯỢNG KHÔNG QUÂN (Air force)

Lực lượng không quân (air force) theo nghĩa rộng nhất là nhánh quân sự quốc gia chủ yếu tiến hành tác chiến trên không. Cụ thể hơn, đó là nhánh của lực lượng vũ trang của một quốc gia chịu trách nhiệm về tác chiến trên không, khác biệt với các đơn vị hàng không quân đội hoặc không quân hải quân. Thông thường, các lực lượng không quân chịu trách nhiệm giành quyền kiểm soát trên không, thực hiện các nhiệm vụ ném bom chiến lược và chiến thuật, đồng thời hỗ trợ cho các lực lượng trên bộ và hải quân thường dưới hình thức trinh sát trên không và hỗ trợ trên không.

Thuật ngữ lực lượng không quân cũng có thể đề cập đến lực lượng không quân chiến thuật (tactical air force) hoặc lực lượng không được đánh số (numbered air force), là một đội hình hoạt động trong lực lượng không quân quốc gia hoặc bao gồm một số thành phần không quân từ các quốc gia đồng minh. Lực lượng không quân thường bao gồm sự kết hợp của máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, máy bay trực thăng, máy bay vận tải và các loại máy bay khác.

Nhiều lực lượng không quân có thể chỉ huy và kiểm soát các tài sản khác của lực lượng phòng không như pháo phòng không, tên lửa đất đối không hoặc mạng lưới cảnh báo tên lửa chống đạn đạo và hệ thống phòng thủ. Một số lực lượng không quân cũng chịu trách nhiệm vận hành không gian quân sự và tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM). Một số quốc gia, chủ yếu là các quốc gia xây dựng quân đội theo mô hình của Liên Xô, có hoặc có lực lượng phòng không có tổ chức tách biệt với lực lượng không quân của họ.

Các hoạt động thời bình /phi chiến tranh của lực lượng không quân có thể bao gồm việc kiểm soát trên không và cứu hộ trên biển.

Lực lượng không quân không chỉ bao gồm các phi công mà còn dựa vào một lượng lớn sự hỗ trợ từ các nhân viên khác để hoạt động. Tất cả các lực lượng không quân đều yêu cầu hậu cần, an ninh, tình báo, hoạt động đặc biệt, hỗ trợ không gian mạng, bảo trì, vận chuyển vũ khí và nhiều chuyên ngành khác.

Lịch sử

Máy bay quân sự nặng hơn không khí

Lực lượng hàng không đầu tiên trên thế giới là Lực lượng Dân quân Hàng không của Quân đội Pháp được thành lập vào năm 1910, sau này trở thành l’Armée de l’Air. Năm 1911, trong Chiến tranh Italo-Thổ Nhĩ Kỳ, Ý lần đầu tiên trên thế giới sử dụng máy bay cho các nhiệm vụ trinh sát và ném bom nhằm vào các vị trí của Thổ Nhĩ Kỳ trên Lãnh thổ Libya. Chiến tranh Ý-Thổ Nhĩ Kỳ 1911-1912 là cuộc chiến đầu tiên trong lịch sử có các cuộc tấn công đường không bằng máy bay và khí cầu điều khiển được. Trong Thế chiến I, Pháp, Đức, Ý, Đế quốc Anh và Đế chế Ottoman đều sở hữu lực lượng máy bay ném bom và máy bay chiến đấu đáng kể. Thế chiến I cũng chứng kiến ​​sự xuất hiện của các chỉ huy cấp cao chỉ đạo chiến tranh trên không và vô số quân át chủ bài.

Lực lượng không quân độc lập

Lực lượng không quân độc lập là một nhánh lực lượng riêng biệt của lực lượng vũ trang của một quốc gia và ít nhất trên danh nghĩa được coi là một nghĩa vụ quân sự ngang bằng với các nghĩa vụ cũ như hải quân hoặc lục quân.

Không quân Hoàng gia Anh (RAF) là lực lượng không quân độc lập đầu tiên trên thế giới. RAF được thành lập vào ngày 01/4/1918 bằng cách hợp nhất Quân đoàn bay Hoàng gia của Quân đội Anh và Lực lượng Không quân Hải quân Hoàng gia. Khi mới thành lập, RAF có hơn 20.000 máy bay. Nó được chỉ huy bởi một Tham mưu trưởng Không quân với cấp bậc thiếu tướng (major general) và được quản lý bởi chính phủ của chính nó (Bộ Không quân).

Có thể cho rằng, Không quân Phần Lan là lực lượng không quân độc lập đầu tiên trên thế giới, được thành lập ngày 6/3/1918, khi bá tước Thụy Điển, Eric von Rosen trao cho Phần Lan chiếc máy bay thứ hai, một chiếc Thulin Typ D. Một số người cho rằng Lực lượng Không quân Phần Lan không chính thức tồn tại trong Nội chiến Phần Lan và Hồng vệ binh có lực lượng không quân riêng.

Trong những thập kỷ tiếp theo, hầu hết các quốc gia có năng lực quân sự đáng kể đều thành lập lực lượng không quân độc lập. Lực lượng Không quân Nam Phi được thành lập vào ngày 1/2/1920 và Lực lượng Không quân Hoàng gia Úc được thành lập ngay sau đó, ngày 31/3/1921, mặc dù phải đến năm 1922, người đứng đầu Lực lượng này mới được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Không quân ngang hàng với các đối tác của Quân độiHải quân Úc. Lực lượng Không quân Canada được thành lập vào cuối Thế chiến I và đã bị bãi bỏ và tổ chức lại nhiều lần từ năm 1918 đến năm 1924. Lực lượng này trở thành Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada thường trực khi nhận được danh hiệu Hoàng gia theo tuyên bố của hoàng gia vào ngày 01/4/1924. Tuy nhiên trở nên độc lập khỏi Quân đội Canada cho đến năm 1938, khi người đứng đầu quân đội này cũng được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Không quân. Tương tự, Lực lượng Không quân Hoàng gia New Zealand được thành lập vào năm 1923 với tên gọi Lực lượng Không quân Thường trực New Zealand, nhưng mãi đến năm 1937 mới độc lập với Quân đội New Zealand. Các quốc gia chịu ảnh hưởng của Anh khác cũng thành lập lực lượng không quân độc lập. Ví dụ, Lực lượng Không quân Hoàng gia Ai Cập được thành lập vào năm 1937, khi ngành hàng không quân sự Ai Cập được tách khỏi bộ chỉ huy Quân đội. Lực lượng Không quân Afghanistan được thành lập vào ngày 22/8/1924, với sự hỗ trợ của Liên Xô và Anh, nhưng một cuộc nội chiến đã phá hủy hầu hết các máy bay và lực lượng này không được tái lập cho đến năm 1937, khi Vua Mohammed Nadir Shah lên nắm quyền.

Bên ngoài Đế quốc Anh, Không quân Hoàng gia Ý được thành lập vào năm 1923, Không quân Romania được thành lập như một lực lượng ngày 01/01/1924, Không quân Phần Lan được thành lập như một quân chủng riêng biệt vào ngày 04/5/1928, Không quân Chile được thành lập vào năm 1930 và Không quân Brazil được thành lập vào năm 1941. Cả Không quân Hoa Kỳ và Không quân Philippines đều được thành lập như một nhánh riêng biệt của lực lượng vũ trang tương ứng của họ vào năm 1947, cũng như Không quân Argentina vào năm 1945. Lực lượng Không quân ra đời cùng với Nhà nước Israel ngày 18/5/1948, nhưng được phát triển từ Sherut Avir (Lực lượng Hàng không) hiện có của lực lượng bán quân sự Haganah. Lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản mãi đến năm 1954 mới được thành lập; trong Thế chiến II, hàng không quân sự Nhật Bản đã được thực hiện bởi Lục quân và Hải quân. Không giống như tất cả các quốc gia này, Không quân Mexico vẫn là một phần không thể thiếu của Quân đội Mexico.

Các cuộc Thế chiến

Thế chiến I

Đức là quốc gia đầu tiên tổ chức các cuộc không kích thường xuyên vào cơ sở hạ tầng của đối phương bằng Luftstreitkräfte. Trong Thế chiến I, nó đã sử dụng khí cầu zeppelin để thả bom xuống các thành phố của Anh. Vào thời điểm đó, Anh có máy bay, mặc dù khí cầu của nước này kém tiên tiến hơn khí cầu zeppelin và rất hiếm khi được sử dụng để tấn công; thay vào đó, chúng thường được sử dụng để do thám các tàu ngầm U-boat của Đức.

Máy bay cánh cố định vào thời điểm đó khá thô sơ, có thể đạt được vận tốc tương đương với ô tô hiện đại và lắp đặt vũ khí và thiết bị tối thiểu. Các quân vụ trên không phần lớn vẫn là một hoạt động tác chiến mới, máy móc tương đối không đáng tin cậy và việc đào tạo hạn chế đã dẫn đến tuổi thọ trung bình của các phi công quân sự thời kỳ đầu rất thấp.

Thế chiến II

Vào thời điểm Thế chiến II bắt đầu, máy bay đã trở nên an toàn hơn, nhanh hơn và đáng tin cậy hơn nhiều. Chúng được sử dụng làm tiêu chuẩn cho các cuộc tấn công ném bom và tiêu diệt các máy bay khác vì chúng nhanh hơn nhiều so với khí cầu. Lực lượng Không quân quân sự lớn nhất thế giới vào đầu Thế chiến II năm 1939 là Lực lượng Không quân Đỏ của Liên Xô, và mặc dù đã bị suy giảm nhiều nhưng lực lượng này sẽ tổ chức các hoạt động không quân lớn nhất của Thế chiến II trong bốn năm chiến đấu với Không quân Đức.

Có thể cho rằng hoạt động không quân quan trọng nhất của cuộc chiến, được gọi là Trận chiến nước Anh, diễn ra trong năm 1940 trên lãnh thổ Anh và eo biển Manche giữa Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh và Luftwaffe của Đức trong khoảng thời gian vài tháng. Cuối cùng, nước Anh đã giành chiến thắng và điều này khiến Adolf Hitler từ bỏ kế hoạch xâm lược nước Anh. Các hoạt động không quân nổi bật khác trong Thế chiến II bao gồm cuộc ném bom của quân Đồng minh vào Đức trong giai đoạn 1942-1944 và các hoạt động của Lực lượng Không quân Đỏ nhằm hỗ trợ các cuộc tấn công chiến lược trên mặt đất ở Mặt trận phía Đông. Cuộc chiến trên không tại mặt trận Thái Bình Dương có tầm quan trọng chiến lược tương đương với Trận chiến nước Anh nhưng phần lớn được tiến hành bởi các cơ quan không quân hải quân Hoa Kỳ và Nhật Bản chứ không phải bởi lực lượng không quân.

Ném bom chiến lược

Vai trò ném bom chiến lược của lực lượng không quân nhằm vào cơ sở hạ tầng của đối phương được phát triển trong những năm 1930 bởi người Nhật ở Trung Quốc và người Đức trong Nội chiến Tây Ban Nha. Vai trò này của máy bay ném bom đã được hoàn thiện trong Thế chiến II, trong các hoạt động “Đột kích nghìn máy bay ném bom” của quân Đồng minh. Nhu cầu đánh chặn những máy bay ném bom này cả ban ngày lẫn ban đêm đã thúc đẩy sự phát triển của máy bay chiến đấu. Chiến tranh kết thúc khi máy bay ném bom Boeing B-29 Superfortress của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki ở Nhật Bản vào tháng 8/1945.

Sau Thế chiến II

Lực lượng Không quân Hoa Kỳ trở thành một lực lượng độc lập vào năm 1947. Khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, cả Không quân Hoa Kỳ và Không quân Liên Xô đều xây dựng lực lượng máy bay ném bom chiến lược có khả năng hạt nhân của họ. Một số tiến bộ công nghệ đã được giới thiệu rộng rãi trong thời gian này: động cơ phản lực; tên lửa; máy bay trực thăng; và tiếp nhiên liệu trên máy bay.

Năm 1954, Lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản được thành lập như một lực lượng riêng biệt. Trước đây Nhật Bản đã cung cấp dịch vụ hàng không từ Lục quân và Hải quân.

Trong những năm 1960, Canada sáp nhập Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada với lục quân và hải quân để thành lập Lực lượng Canada thống nhất, với lực lượng không quân được phân chia cho nhiều bộ chỉ huy và đồng phục màu xanh lá cây cho mọi người. Điều này tỏ ra không được ưa chuộng, và vào năm 1975 các đơn vị hàng không Canada đã được tổ chức lại dưới một tổ chức duy nhất (Bộ Tư lệnh Không quân) với một chỉ huy duy nhất. Năm 2011, Bộ Tư lệnh Không quân Lực lượng Canada đổi lại tên cũ trước những năm 1960, Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada.

Tổ chức

Cơ cấu tổ chức của lực lượng không quân khác nhau giữa các quốc gia: một số lực lượng không quân (như Không quân Hoa Kỳ, Không quân Hoàng gia) được chia thành các bộ tư lệnh (commands), liên đoàn (groups) phi đoàn (squadrons); những nước khác (chẳng hạn như Không quân Liên Xô) có cơ cấu tổ chức kiểu Quân đội. Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada hiện đại sử dụng Sư đoàn Không quân làm đội hình giữa các không đoàn (wings) và toàn bộ bộ chỉ huy không quân. Giống như RAF, các không đoàn (wings) của Canada bao gồm các phi đoàn (squadrons). Trong trường hợp của Trung Quốc, Bộ chỉ huy Không quân bao gồm bốn cục (departments): Chỉ huy, Chính trị, Hậu cần và Thiết bị, phản ánh bốn bộ tổng hợp của Quân đội Giải phóng Nhân dân. Bên dưới trụ sở, Lực lượng Không quân Quân khu (MRAF) chỉ đạo các sư đoàn (Máy bay chiến đấu, Tấn công, Máy bay ném bom), lần lượt chỉ đạo các trung đoàn (regiments) và phi đoàn.

Bộ binh

Bộ binh tấn công trên không và Dù, chẳng hạn như Trung đoàn Không quân Hoàng gia, Lực lượng Phòng vệ Sân bay của Không quân Hoàng gia Úc, Lực lượng An ninh RNZAF và Lực lượng An ninh Không quân Hoa Kỳ, được sử dụng chủ yếu để phòng thủ trên mặt đất các căn cứ không quân và các cơ sở không quân khác. Họ cũng có một số vai trò chuyên môn khác, bao gồm phòng thủ Hóa học, Sinh học, Phóng xạ và Hạt nhân (CBRN), các hoạt động tấn công nhằm bảo vệ tài sản của lực lượng không quân và huấn luyện các nhân viên lực lượng không quân khác về các chiến thuật phòng thủ mặt đất cơ bản.

Các lực lượng đặc biệt

Các lực lượng đặc biệt của Không quân, chẳng hạn như Lực lượng chiến thuật đặc biệt của Không quân Hoa Kỳ, Para-SAR của Brazil, Lực lượng biệt kích Garud của Ấn Độ và Đội đặc nhiệm Pakistan được sử dụng trong nhiều vai trò khác nhau, bao gồm tìm kiếm và cứu hộ chiến đấu, trinh sát đặc biệt, hành động trực tiếp, chống nổi dậy, hoạt động tình báo và đóng vai trò là người điều khiển tấn công thiết bị đầu cuối chung thuộc lực lượng mặt đất và lực lượng hoạt động đặc biệt./.

Bài viết được đề xuất

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *