ĐỘI QUÂN, TOÁN QUÂN (Troop)

Một đội quân hay toán quân hay đội (troop) là một tiểu đơn vị quân đội, ban đầu là một đội hình kỵ binh nhỏ, trực thuộc một phi đoàn (squadron). Trong nhiều quân đội, một đội quân là thành phần tương đương với một tiểu đội (section) hoặc trung đội (platoon) bộ binh. Ngoại lệ là Kỵ binh Hoa Kỳ và Pháo binh Hoàng gia của Quân đoàn Hoàng gia, trong đó troop là một tiểu đơn vị tương đương với một đại đội (company) bộ binh hoặc một khẩu đội pháo binh (artillery battery). Về mặt lịch sử, phần còn lại của Pháo binh Hoàng gia đã sử dụng thuật ngữ tiểu đoàn theo cùng một cách nhưng cuối cùng họ đã liên kết với phần còn lại của Trung đoàn Pháo binh Hoàng gia khi gọi troop là trực thuộc các tiểu đoàn pháo binh.

Troops thường được dùng để chỉ những thành phần khác trong đại đội hoặc mục đích của một người, nhưng vì hàm ý quân sự của nó, nó truyền tải một loại người lao động tận tụy đặc biệt vị tha. Theo truyền thống, troops dùng để chỉ những người lính trong quân đội.

Một người lính kỵ binh cấp bậc binh nhì (private) được gọi là trooper trong nhiều quân đội Khối thịnh vượng chung (viết tắt là “Tpr”).

Theo nghĩa liên quan của thuật ngữ này, troop ám chỉ các thành viên của quân đội nói chung, như trong “the troops”.

Troop trong các lực lượng khác nhau

Ngày nay, troop được định nghĩa khác nhau ở các lực lượng vũ trang khác nhau.

Trong Quân đội Úc, một troop tương đương với một đơn vị có quy mô trung đội trong các đơn vị của một số quân đoàn nhất định, bao gồm:
– Không quân Lục quân Úc.
– Quân đoàn thiết giáp Hoàng gia Úc.
– Quân đoàn tín hiệu Hoàng gia Úc.
– Quân đoàn Vận tải Hoàng gia Úc.
– Công binh Hoàng gia Úc.
– Quân đoàn Khảo sát Hoàng gia Úc (hiện đã giải tán).
– Trung đoàn pháo binh Hoàng gia Úc.
– Trung đoàn Không quân Đặc nhiệm (SASR).

SASR (Special Air Service Regiment) là đơn vị duy nhất trong Quân đoàn Bộ binh Hoàng gia Úc sử dụng thuật ngữ troop để chỉ các thành phần có quy mô trung đội của mình. Quân đoàn SASR cũng khác thường vì họ được chỉ huy bởi một đại úy (captain) – hầu hết các thành phần có quy mô đội quân (troop) hoặc trung đội (platoon) đều do một trung úy (lieutenant) chỉ huy. Trong hầu hết các trường hợp, các đơn vị gọi các thành phần có quy mô trung đội là đội quân thì gọi các thành phần có quy mô đại đội là phi đoàn (squadron) và các thành phần có quy mô tiểu đoàn là trung đoàn (các trung đoàn trong RAA sử dụng thuật ngữ (battery) (khẩu đội) cho các thành phần có quy mô đại đội). Các binh nhì trong Quân đoàn Thiết giáp Hoàng gia Úc và SASR giữ cấp bậc “trooper”, tuy nhiên, điều này không đúng với bất kỳ quân đoàn hoặc đơn vị nào khác sử dụng thuật ngữ “troop” (đội quân).

Trong Quân đội Anh, định nghĩa về đội quân thay đổi tùy theo quân đoàn.

– Kỵ binh hộ gia đình và Quân đoàn thiết giáp hoàng gia: Ba hoặc bốn xe chiến đấu bọc thép do một sĩ quan sơ cấp (subaltern) chỉ huy, tức là về cơ bản là cùng cấp với một trung đội bộ binh. Một đơn vị gồm 2 đến 4 khẩu súng hoặc bệ phóng, hoặc một đơn vị sở chỉ huy tương đương.

– Pháo binh Hoàng gia: Một nửa khẩu đội. Trong Pháo binh Kỵ binh Hoàng gia, một đội quân thường tương đương với một khẩu đội trong các đơn vị pháo binh khác.

– Công binh Hoàng gia, Quân đoàn Tín hiệu Hoàng gia, Quân đoàn Hậu cần Hoàng gia, Lực lượng Không quân Đặc biệt và Đại đội Pháo binh Danh dự (và trước đây là Quân đoàn Vận tải Hoàng gia): Một đơn vị có quy mô tương đương với một trung đội trong các quân đoàn khác, được chia thành các tiểu đội (section) hoặc đội tuần tra (patrol). Kỹ sư Hoàng gia và Quân đoàn Tín hiệu Hoàng gia sử dụng trung đội thay thế cho đến sau Thế chiến II.

Các quân đoàn khác không sử dụng thuật ngữ này.

Trong Thủy quân Lục chiến Hoàng gia, một troop tương đương với một trung đội Lục quân; được kế thừa từ tổ chức Biệt kích Anh trong Thế chiến II.

Trong Quân đội Canada, một troop tương đương với một trung đội trong các nhánh thiết giáp, pháo binh, công binh và tín hiệu. Hai đến bốn troops tạo thành các thành phần chính của một phi đoàn.

Trong Quân đội Hoa Kỳ, trong nhánh kỵ binh, một troop là đơn vị tương đương với đại đội bộ binh, do một đại úy chỉ huy và bao gồm 3 hoặc 4 trung đội, và được gọi là một troop trong một trung đoàn. Các đại đội được đổi tên thành troop vào năm 1883. Trong một số trường hợp, một đại đội bộ binh có thể được gọi là “troop” do sự hiện diện của nó trong một phi đoàn kỵ binh; đây thường là trường hợp của đội trinh sát không có ngựa DRT (dismounted reconnaissance troop) của một phi đoàn RSTA, trong đó một thành phần có quy mô đại đội bộ binh là một phần của một phi đoàn có nhánh kỵ binh.

Troop trong các tổ chức dân sự

Tại Hoa Kỳ, lực lượng cảnh sát tiểu bang thường được chia theo khu vực thành các troops. Cách sử dụng này xuất phát từ việc các tổ chức này mô phỏng theo Quân đội Hoa Kỳ, và đặc biệt là các đơn vị kỵ binh cũ. Vì lý do tương tự, cảnh sát tiểu bang và nhân viên tuần tra đường bộ của hầu hết các tiểu bang được gọi là “troopers” thay vì “officers”.

Trong Hướng đạo, một đội hướng đạo (scout troop) là một đơn vị gồm các hướng đạo sinh hoặc hướng dẫn viên từ cùng một địa phương dưới sự chỉ huy của một người lãnh đạo. Trong trường hợp của Hướng đạo sinh, thuật ngữ “company” được sử dụng thường xuyên hơn và được người sáng lập sử dụng trong những cuốn sách đầu tiên của ông về hướng đạo./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *