TÀU HỘ VỆ LỚP Pohang

Tổng quan:
– Thiết kế: Tập đoàn đóng tàu Hàn Quốc
– Nhà máy đóng tàu: Tacoma Hàn Quốc, Hyundai Heavy Industries, Daewoo, Hanjin Heavy Industries
– Các nhà khai thác: Hàn Quốc (7 chiếc), Colombia (1 chiếc), Ai Cập (1 chiếc), Indonesia (dự kiến 1 chiếc), Peru  (1 chiếc), Philippines (1 chiếc + 1), Việt Nam (2 chiếc).
(Đã loại biên 9 chiếc, 1 bị Triều Tiên đánh chìm, 1 chiếc làm bảo tàng).
– Lớp trước: Donghae
– Lớp sau: Incheon
– Biên chế: từ 17/12/1984 – nay
– Hoàn thành: 24
– Đang hoạt động: 14 (+2)
– Kiểu loại: tàu hộ vệ (corvette)
– Lượng giãn nước: 950-1.220 tấn
– Chiều dài: 88,3 m
– Độ rộng: 10 m
– Mớn nước: 2,9 m
– Động lực đẩy (CODOG)
+ 1 x GE LM2500 (tuabin khí)
+ 2 x MTU 12V 956 TB82 (động cơ diesel)
– Tốc độ:
+ Tối đa: 32 hl/g (59 km/h)
+ Kinh tế: 15 hl/g (28 km/h)
– Tầm hoạt động: 4.000 hl (7.400 km)
– Thủy thủ đoàn: 95 (10 sĩ quan)
– Khí tài:
+ Hệ thống kiểm soát hỏa hoạn: Signaal SEWACO ZK (Lô II – III); Samsung/Ferranti WSA-423 (Lô IV – VI)
+ Radar tìm kiếm bề mặt: Raytheon AN/SPS-64 (Lô II – IV); Samsung/Marconi S1810 (Lô V – VI); STX SPS-300K (Lô IV – VI, sau năm 2014)
+ Radar điều khiển hỏa lực: Signaal WM28 (Lô II – III); Samsung/Marconi ST1802 (Lô IV – VI)
+ Dẫn đường quang điện tử: Signaal LIOD (Lô II – III); Samsung/Radamec 2400 (Lô IV – VI)
+ Sonar: EDO 786 (Lô II); Raytheon AN/SQS-58 (Lô III – VI)
+ Tác chiến điện tử & mồi bẫy: Mk 36 SRBOC; GoldStar ULQ-12K ESM; SLQ-261K TACM (Lô IV – VI, sau năm 2012); Victek SLQ-201K ESM (Lô IV – VI, sau năm 2019).
– Vũ khí:
+ 1 x pháo 76 mm/62 OTO Melara (Lô II)
+ 2 x pháo 76 mm/62 OTO Melara (Lô III – VI)
+ 2 x pháo nòng đôi Emerson EMERLEC 30 Oerlikon 30 mm/75 KCB (Lô II)
+ 2 x pháo nòng đôi Breda DARDO CIWS 40 mm/70 (Lô III – VI)
+ 2 x MM38 Exocet SSM (Lô II)
+ 2 x 2 RGM-84C Harpoon SSM (Lô IV, sau năm 1999)
+ 2 x 2 SSM-700K C-Star SSM (Lô V – VI, sau năm 2007)
+ 2 x 3 Mark 32 SVTT (ống phóng lôi hộp 3)
+ Mark 46 ASW, hoặc K745 Blue Shark ASW (sau năm 2006)
+ 12 x Mk 9 hoặc KMk 9
+ Mistral MANPADS (tên lửa phòng không vác vai), (sau năm 2000)
+ 2 x K6 HMG
+ 2 x M60 GPMG

Tàu hộ vệ lớp Pohang là phần bổ sung cấp thấp của kế hoạch xây dựng hải quân trong nước hỗn hợp cao-thấp của Hải quân Hàn Quốc (ROKN) trong dự án Yulgok 1 (1974-1986). Ban đầu có kế hoạch sản xuất Lô II tàu hộ vệ lớp Donghae, nhưng nhiều thay đổi về thiết kế tổng thể, đáng chú ý là áp dụng thiết kế thân tàu của khinh hạm lớp Ulsan, đã phân loại lại con tàu thành lớp riêng. Tàu được thiết kế để tuần tra biên giới trên biển, bao gồm cả đường giới hạn phía Bắc, bảo vệ vùng ven biển và chống lại các tàu của Triều Tiên.

Kể từ năm 1984, có tổng cộng 24 tàu hộ vệ lớp Pohang được biên chế trong Hải quân Hàn Quốc. Sự ngừng hoạt động của lớp này bắt đầu từ năm 2009 và đang được thay thế bằng một loạt chương trình FFX. Tính đến năm 2022, 7 chiếc vẫn hoạt động trong ROKN và 7 chiếc đã được chuyển giao cho các lực lượng hải quân khác.

Tàu hộ vệ lớp Pohang ban đầu được dự định là phiên bản Batch II (Lô II) của tàu hộ vệ lớp Donghae.

Trong giai đoạn thiết kế tàu hộ vệ lớp Donghae, đã có một số cuộc tranh luận giữa các nhà thiết kế về hình dạng của thân tàu. Thuyền trưởng Eom Do-jae, người cũng đang giám sát việc chế tạo khinh hạm lớp Ulsan vào thời điểm đó, tin rằng một tàu hộ vệ mới nên có thân tàu hẹp hình chữ V, tương tự như thiết kế của khinh hạm lớp Ulsan. Tuy nhiên, theo các nhà thiết kế khác, dựa trên kinh nghiệm từ các con tàu do ROKN vận hành, chiếc PCEC lớp Noryang (Tàu hộ vệ & chiến đấu) lớp Noryang (lớp PCE-842 cũ) có kích thước tốt nhất cho nhiệm vụ, và tàu Sinseong -class PCE (Patrol Craft Escort) (MSF trước đây thuộc lớp Auk), có thân tàu hình chữ U, cho thấy độ ổn định của tàu ở tốc độ tuần tra (5-8 hl/g). Một cân nhắc thêm là thân tàu hình chữ V sẽ yêu cầu bộ vây ổn định, vốn không được ROKN ưa chuộng do gặp khó khăn với bộ vây ổn định của PGM lớp Baekgu (Động cơ tàu pháo tuần tra) (lớp Asheville đã được sửa đổi). Do đó, ROKN đã tiến hành thiết kế hình chữ U để đạt được sự ổn định mà không cần sử dụng bộ ổn định vây cho lớp Donghae.

Thuyền trưởng Eom sau đó đã thuyết phục chỉ huy ROKN thay đổi thiết kế thân tàu để đóng lô thứ hai của tàu hộ vệ lớp Donghae. Thân tàu có hình dạng tương tự như lớp Ulsan, và nhiều cấu trúc bên trong và bên ngoài đã được thiết kế lại. Cuối cùng thì phiên bản Lô II này đã đủ khác biệt với lớp Donghae ban đầu mà nó đã được phân loại lại thành lớp Pohang. Quyết định lắp đặt bộ vây ổn định trên tàu hộ vệ lớp Pohang được ROKN quyết định chỉ một tháng trước khi ra mắt ROKS Pohang do phản hồi từ ROKS Ulsan (được chế tạo không có thiết bị vây ổn định). Để đáp ứng yêu cầu về bộ vây ổn định mới, các bộ phận bên trong đã được di dời theo sự phân bố chặt chẽ.

Lớp Pohang dài hơn khoảng 10 m, nặng hơn 100 tấn và nhanh hơn 1 hl/g (với tốc độ tối đa 32 hl/g) so với lớp Donghae nhờ tỷ lệ chiều dài tốc độ tốt hơn. Trong quá trình thử nghiệm trên biển, Pohang đạt tốc độ 35 hl/g. Việc thử nghiệm thành công bộ vây ổn định đã thúc đẩy việc lắp đặt tiếp theo của chúng trên tất cả các lớp Pohang và Ulsan.

Lớp Pohang được trang bị một động cơ tuabin khí General Electric LM2500 và 2 động cơ diesel MTU Friedrichshafen 12V 956 TB82 cho hệ thống đẩy kết hợp diesel hoặc khí (CODOG), cho phép tàu có trọng tải 1.220 tấn di chuyển tối đa 32 hl/g và 15 hl/g (kinh tế). Vũ khí chính tập trung vào tác chiến mặt nước để chống lại nhiều tàu nhỏ và lớn của Triều Tiên, được điều khiển bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Signaal SEWACO ZK kết hợp với radar tìm kiếm bề mặt Raytheon AN/SPS-64, radar điều khiển hỏa lực Signaal WM28 và Signaal LIOD giám đốc quang điện tử. Đối với nhiệm vụ chống tàu ngầm, con tàu đã lắp đặt sonar EDO 786 và trang bị 2 x 3 ống phóng lôi trên boong Mark 32 bắn ngư lôi Mark 46.

Tuy nhiên, con tàu thiếu radar tìm kiếm trên không cùng với vũ khí phòng không, vốn là chủ đề lớn nhất của quân đội thế giới do hậu quả của Chiến tranh Falklands, do ngân sách thấp. Con tàu có khả năng phòng thủ hạn chế trước cuộc tấn công bằng tên lửa và đường không, chỉ được hỗ trợ bởi GoldStar ULQ-12K ESM (biện pháp hỗ trợ điện tử) và Mk 36 SRBOC (Biện pháp đối phó Super Rapid Bloom Offboard).

Lớp Pohang đã nhận được nhiều thay đổi và nâng cấp trong quá trình đóng và phục vụ cho Hải quân Hàn Quốc. ESM và các hệ thống cảm biến khác, tùy thuộc vào bên mua, được tháo ra khỏi tàu, trong khi một số được lắp đặt khi chuyển đến các quốc gia khác.

Các biến thể (phân loại theo Batch – lô):

II

Đã đóng 4 tàu. Lô II loại bỏ hai khẩu pháo Bofors 40mm/60 và lắp hai bệ phóng tên lửa đất đối không Aérospatiale MM38 Exocet.

Lô III

Đã đóng 4 tàu. Lô III đã tăng cường mạnh mẽ hệ thống pháo của nó bằng cách lắp thêm pháo OTO Melara 76 mm/62, và thay thế 2 x khẩu Oerlikon 30 mm/75 KCB 2 x Emerson EMERLEC 30 bằng 2 x pháo nòng đôi Breda DARDO CIWS 40 mm/70, đó là có khả năng tấn công máy bay và tên lửa hành trình. Sonar được nâng cấp thành Raytheon AN/SQS-58 để tăng khả năng tác chiến chống tàu ngầm trong khi MM38 Exocet bị loại khỏi tàu.

IV

10 tàu được đóng. Lô IV là lần nâng cấp và thay đổi quan trọng nhất của lớp Pohang. Con tàu đã thay đổi hệ thống chiến đấu thành WSA-423 (Weapon Ship Automation – 423) với sự hợp tác của Samsung Aerospace Industries (sau này là Hanwha Systems) và Ferranti của Anh, trở thành xương sống của hệ thống chiến đấu hiện tại của Hải quân Hàn Quốc được mệnh danh là “Lá chắn Hải quân”. Việc lắp đặt hệ thống chưa được kiểm chứng này đã gây ra sự chậm trễ trong việc giao tàu. Các thay đổi hệ thống bổ sung bao gồm radar điều khiển hỏa lực Marconi ST1802 và dẫn đường quang điện tử Radamec 2400, cả hai đều do Samsung bản địa hóa.

Lô V/VI

Đã đóng 6 tàu. Lô V/VI có cấu trúc khác biệt so với Lô trước. Radar điều khiển hỏa lực được đổi thành Samsung/Marconi ST1802.

Năm 1999, Lô IV bắt đầu trang bị tên lửa đất đối đất RGM-84C Harpoon. Hệ thống này được đưa ra từ việc ngừng hoạt động các tàu khu trục lớp Chungbuk (lớp cũ) và được lắp đặt trên các tàu hộ vệ.

Năm 2000, MBDA Mistral MANPADS được lắp đặt trên tàu như một vũ khí phòng không.

Năm 2006, ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ K745 Blue Shark đã đạt được khả năng hoạt động đầy đủ. Ngư lôi mới sẽ được bổ sung vào kho vũ khí của các tàu.

**

Vào 4:33 chiều ngày 22/6/1998, một tàu đánh cá của Hàn Quốc báo cáo rằng một tàu ngầm lớp Yugo của Triều Tiên đã bị vướng lưới đánh cá ở cách Sokcho 20,7 km về phía đông. ROKN đã điều động các tàu bao gồm ROKS Gunsan và ROKS Mokpo và máy bay để đảm bảo hiện trường. Vào 7:25 PM, ROKS Gunsan bắt đầu kéo tàu ngầm về căn cứ hải quân gần đó. Tất cả các nhân viên điều hành của Triều Tiên được tìm thấy đã chết bên trong tàu ngầm – nhóm tự sát trước khi bị bắt.

Vào lúc 21:21:57 (12:21:57 UTC) ngày 26/3/2010, một vụ nổ (hoặc hai vụ nổ) đã xảy ra trong 1~2 giây ở phía lái tàu ROKS Cheonan, gây ra sự cố ngừng điện và chảy dầu và nước biển, và con tàu nghiêng 90 độ sang mạn phải rất nhanh. Khi thủy thủ đoàn đi ra boong, họ phát hiện phần đuôi tàu đã bị nhấn chìm. Đến 22.40, lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển đã cứu được 58 thủy thủ, trong đó có thuyền trưởng, thuộc biên chế 104 người; 46 người đã thiệt mạng. Con tàu chìm vào khoảng 01:00 ngày 27/3/2010. Mũi tàu nổi cách nơi xảy ra vụ nổ 6,4 km (3,5 hl) về phía đông nam, sau đó chìm hoàn toàn vào lúc 22:30 ngày 27/3/2010.

Vào ngày 20/5/2010, một nhóm điều tra do Hàn Quốc dẫn đầu đã thông báo rằng tất cả các bằng chứng đều chỉ ra một ngư lôi của Triều Tiên là nguyên nhân gây ra vụ đánh chìm tàu ​​ROKS Cheonan.

Để đáp trả cuộc tấn công của tàu ngầm Triều Tiên, lớp Pohang đã nâng cấp khả năng tác chiến chống tàu ngầm của mình bằng cách lắp đặt SLQ-261K TACM (Ngư lôi phản âm) và thay đổi xuồng cứu hộ cũ hơn thành RIB (xuồng bơm hơi có vỏ cứng) trên Lô IV và các biến thể muộn hơn vào đầu năm 2012.

Trong biên chế Hải quân nhân dân Việt Nam

Gimcheon (PCC-761) và Yeosu (PCC-765) được chuyển giao cho Việt Nam với số hiệu lần lượt là 18 20.

Gimcheon hạ thủy ngày 29/11/1985 bởi Hanjin Heavy Industries tại Busan, đưa vào hoạt động từ 1/9/1986 đến 31/12/2015, chuyển giao cho Việt Nam ngày 7/6/2017.

Vào ngày 10/9/2019, BRP Ramon Alcaraz, tàu “18” và KDB Darulaman đã tham gia AUM X 2019. Darulaman lên đường từ Brunei để gặp “18” ngoài khơi Đảo Hòn Khoai.

Yeosu hạ thủy ngày 14/6/1986 bởi DSME tại Geoje, đưa vào hoạt động từ 1/12/1986 đến 27/12/2017, chuyển giao cho Việt Nam ngày 17/10/2018.

Trong cuộc Duyệt binh Hạm đội Quốc tế Hàn Quốc 2018 vào ngày 11/10/2018, tàu 20 đã lên đường đến Hàn Quốc cùng với 13 tàu nước ngoài khác.

Tổng quan (tàu 18 Việt Nam):
– Hạ thủy: 29/11/1985
– Biên chế (Hàn Quốc): 1/9/1986
– Dừng hoạt động: 31/12/2015
– Số hiệu (khi ở Hàn Quốc): PCC-761
– Số hiệu (khi chuyển giao cho Việt Nam): 18
– Biên chế (Việt Nam):  7/6/2017
– Loại tàu: hộ vệ lớp Pohang
– Lượng giãn nước: 1.220 tấn
– Chiều dài: 88 m
– Độ rộng: 10 m
– Mớn nước: 2,9 m
– Công suất lắp đặt: Máy phát điện diesel 2 × MTU 6V396 TC52
– Động lực đẩy: CODOG
+ 2 × MTU 12V956 TB82 (động cơ diesel) sản sinh tổng cộng 6.260 shp (4.670 kW)
+ 1 × General Electric LM2500 PB (tua-bin khí), tổng 27.820 shp (20.700 kW)
– Tốc độ tối đa: 32 hl/g (59 km/h)
– Tầm hoạt động: 4.000 hl (7.400 km) ở tốc độ 15 hl/g (28 km/h) sử dụng động cơ diesel
– Khả năng đi biển: 20 ngày
– Xuồng mang theo: 2 × RHIB (Rigid inflatable boat, xuồng bơm hơi cứng)
– Thủy thủ đoàn: 118 người
– Khí tài:
+ Các radar điều hướng băng tần X & băng tần S
+ Radar tìm kiếm bề mặt Raytheon AN/SPS-64 (V) 5B
+ Hệ thống điều khiển hỏa lực Signaal (Thales Nederland) WM-28
+ Dần đường quang điện tử LIOD của Signaal (Thales Nederland)
+ Sonar gắn thân tàu: Raytheon AN/SQS-58 (thụ động/chủ động)
– Tác chiến điện tử & mồi bẫy: 2 × Loral Hycor Mk 34 SRBOC Chaff và Hệ thống phóng mồi nhử
– Vũ khí:
+ 2 × Oto Melara pháo tàu cỡ nhỏ 76 mm/62
+ 2 × Otobreda 40 mm L/70 pháo tàu nòng đôi
+ 2 ống phóng ngư lôi 3 × Mk 32
+ 2 × giá thả lượng nổ ngầm Mk 9
+ 6 × 12,7 mm M2HB Browning./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *