Đây là còn lớp khinh hạm đầu tiên do Trung Quốc thiết kế vào chế tạo. Trong số này, có Nam Sung 502 là một trong những con tàu đã xả đạn vào tàu hàng HQ-604 của Việt Nam khi Trung Quốc đánh chiếm đá Gạc Ma của Việt Nam, tạo nên thảm sát không cân sức rất đáng nguyền rủa.
Tổng quan:
– Chiều dài: 90 m
– Độ rộng: 10,2 m
– Mớn nước: 2,92 m
– Lượng giãn nước: 1.146 tấn (tiêu chuẩn); 1.249 tấn (đầy tải)
– Thủy thủ đoàn: 148 người (trong đó có 30 sĩ quan)
– Khả năng đi biển: 2.700 hl ở vận tốc 16 hl/g
– Tốc độ: 21,5 hl/g (lớn nhất); 16 hl/g (kinh tế)
– Động lực đẩy: 2 x động cơ diesel có công suất cực đại hoạt động liên tục 2 x 6.600 mã lực, 2 x chân vịt (tuabin hơi nước TV-9 2 x nồi hơi KVG-57/28 dầu)
– Khí tài:
+ 1 x radar tìm kiếm trên biển Type 512A
+ 1 x radar hàng hải Type 751
+ 1 x Type 651A (radar nhận dạng)
+ sonar Type 305, Type 109
– Vũ khí:
+ 3 x 100 mm Type 61 (tầm bắn 22.500 m)
+ 4 x 37 mm (nòng đôi)
+ 2 x 14,5 mm (nòng đôi)
+ 2 x bệ phóng bom chìm 5 ống tên lửa Type 64 (tầm bắn 1.280 m)
+ 2 x bệ phóng bom chìm cỡ lớn Type 64 với 6 quả bom
+ 2 x lượng nổ ngầm và ray phóng.
Khinh hạm Type 065 lớp Giang Nam, còn được gọi là tàu khu trục hộ tống (destroyer escort) được chế tạo tại Trung Quốc dựa trên thiết kế của lớp Riga sửa đổi lấy từ Liên Xô, sử dụng động cơ diesel thay vì động cơ tuabin hơi nước. Vào thời điểm đó, người Trung Quốc không thể sao chép các tuabin hơi nước áp suất cao nhỏ gọn của Liên Xô.
Năm 1962, Viện 701 của Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu, thiết kế khinh hạm Type 065. Các nguồn mâu thuẫn với nhau về việc khinh hạm nào được hạ thủy và ở đâu. Chiếc đầu tiên rõ ràng là Hải Khẩu 529, tại Hoàng Phố, được đưa vào hoạt động vào tháng 8/1966. Con tàu đầu tiên được đóng vào năm 1963 tại xưởng đóng tàu Quảng Châu. Một khinh hạm thứ hai được chế tạo hai năm sau đó, và cả hai tàu đều được chuyển giao cho Hải Quân Trung Quốc (PLAN) vào năm 1966. Các nguồn tin phương Tây khác nhau về chính xác nhà máy đóng tàu nào đã tham gia vào dự án này.
Khinh hạm lớp Giang Nam là loại khinh hạm đầu tiên do Trung Quốc thiết kế và được chế tạo bằng thiết bị và vật liệu do Trung Quốc sản xuất. Tàu có chiều dài 90,0 m, rộng 10,2 m, mớn nước 2,92 m, lượng giãn nước 1146 tấn (tiêu chuẩn) và 1249,5 tấn (đầy tải), tốc độ tối đa 23 hl/g, tầm hoạt động 2700 hl ở vận tốc 16 hl/g, thủy thủ đoàn 148 người (trong đó có 12 sĩ quan), khả năng đi biển gió cấp 8, có thể độc lập trong 10 ngày. Tàu được trang bị 3 khẩu 100 mm (nòng đơn), 4 khẩu 37 mm (nòng đôi), 2 bệ phóng tên lửa chống ngầm 250 mm 5 ống và 4 dàn phóng bom chìm 6 ống 432 mm.
Khinh hạm Type 065 là tàu chiến chủ lực hạng trung trên 1.000 tấn đầu tiên do Trung Quốc tự phát triển. Con tàu đã vượt qua những khó khăn trong quá trình phát triển, không ngừng tối ưu hóa thiết kế tàu theo điều kiện hiện có, nhờ đó tính năng thực tế của con tàu đã đạt mức tương đối khả quan và đã chịu được thử thách của sóng gió và thực tế chiến đấu. Việc phát triển thành công loại tàu này đã đặt nền móng cho các tàu tác chiến mặt nước cỡ lớn và cỡ trung của Trung Quốc đi từ bắt chước sang tự phát triển.
Việc biên chế các khinh hạm Type 065 đã giúp Hải quân Trung Quốc có những chiến hạm đủ sức đọ sức với các lực lượng xung quanh trên Biển Đông. So với loại tàu này, tàu hải quân các nước xung quanh Biển Đông không có lợi thế. Không cần phải nói rằng hải quân Bắc Việt vẫn ở gần Trung Quốc. Lúc này, Hải quân Việt Nam Cộng hòa chỉ có 1 khinh hạm cùng 5 tàu săn ngầm và 2 tàu quét mìn, Malaysia có 1 khinh hạm và 8 tàu quét mìn, Thái Lan có 6 khinh hạm cũ, mạnh nhất là Hải quân Indonesia với 1 tàu tuần dương lớp Sverdlov, 6 tàu khu trục, và 6 khinh hạm, nhưng hầu hết các tàu chiến của họ được mua từ Liên Xô, và hiếm khi đóng vai trò ở vùng khí hậu nhiệt đới và bảo trì kém. Ví dụ, các tàu tuần dương lớp Sverdlov hiếm khi tham gia hoạt động.
Khinh hạm Type 065 là loại tàu tác chiến mặt nước cỡ trung lần đầu tiên được ngành công nghiệp đóng tàu Trung Quốc thiết kế và chế tạo. Nó không chỉ cung cấp cho ngành công nghiệp đóng tàu cơ hội thực hành mà còn phản ánh mục tiêu rất rõ ràng trong thiết kế tàu. Trong một số trường hợp hạn chế, cả hiệu suất của tàu chiến và ngày giao hàng đều được đảm bảo, do đó mối quan hệ giữa chi phí, thời gian và hiệu suất của tàu được cân bằng tốt. Hơn nữa, “vạn sự khởi đầu nan” chỉ dành cho hệ thống điều hòa không khí.
Đủ loại công trình đột phá đã khiến loại tàu chiến này chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử phát triển tàu chiến Trung Quốc. Sức mạnh của tàu Trung Quốc đã thay đổi từ DC sang AC, và đây là sự khởi đầu trên con tàu này. Phi hành đoàn đã thu thập dữ liệu khí tượng của các cảng ở Biển Đông.
Nhiệm vụ cơ bản của khinh hạm Type 065 là hộ tống đội hình tàu; tuần tra cảnh giác, kiểm ngư trên các vùng biển xa bờ. Nó cũng có thể được sử dụng để tham gia các hoạt động đổ bộ và chống đổ bộ cũng như triển khai mìn.
Từ năm 1965 đến 1969, 5 khinh hạm lớp Giang Nam do Trung Quốc chế tạo đã nâng cao đáng kể sức mạnh của Hạm đội Nam Hải, các nhiệm vụ cảnh giới, hộ tống quan trọng được đảm bảo. Trong những năm qua, khinh hạm Type 65 đã thực hiện nhiều nhiệm vụ hải trình khác nhau, vượt qua thử thách của cơn bão số 12 và hành trình hơn 100.000 hl an toàn.
Thiết kế của khinh hạm Type 65 đã thành công và chất lượng xây dựng là tuyệt vời. Loại khinh hạm này đã giành được “Giải thưởng thành tựu xuất sắc của Hội nghị khoa học toàn quốc” năm 1978. Loại khinh hạm pháo này là tàu chiến chủ lực hạng trung trên 1.000 tấn đầu tiên do Trung Quốc phát triển. Các nhân viên nghiên cứu và thiết kế của Trung Quốc đã vượt qua những khó khăn lớn như thiếu dữ liệu và thiếu thiết bị hỗ trợ trong quá trình phát triển. Theo điều kiện hiện có lúc bấy giờ, họ đã không ngừng tối ưu hóa thiết kế của con tàu để làm cho hiệu suất thực tế của con tàu đạt đến mức tương đối khả quan. Chịu được thử thách của bão tố và thực chiến. Việc phát triển thành công loại tàu này đã đặt nền móng cho Trung Quốc.
Trong trận chiến đánh chiếm Quần đảo Hoàng Sa với Việt Nam Cộng hòa năm 1974, Nam Sung (số hiệu khi đó 232) được sử dụng để vận chuyển vật liệu và chở người.
Vào ngày 14/3/1988, trong thảm sát Gạc Ma, Nam Sung 502 không chỉ tổ chức đổ bộ lên đá mà còn chủ động khai hỏa pháo chính 100 mm và 37 mm đồng loạt vào tàu HQ-604 của Việt Nam, sau 4 phút là tàu HQ-604 bị chìm. Phía Trung Quốc thống kê, trong trận thảm sát này, 3 tàu chiến của Hải quân Trung Quốc đã bắn đi tổng cộng 285 viên đạn pháo 100 mm và 266 viên đạn pháo 37 mm, đánh chìm 2 tàu vận tải quân sự Việt Nam./.