Tổng quan:
– Nhà vận hành: Hải quân Liên Xô; Ai Cập; Indonesia; Ba Lan
– Lớp trước: Ognevoy (Project 30)
– Lớp sau: Neustrashimy (Project 41)
– Lịch sử xây dựng: 1949-1953
– Lịch sử phục vụ: 1949-1984
– Hoàn thành: 70
– Lượng giãn nước: 2.353 tấn (tiêu chuẩn), 3.115 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 120,5 m
– Độ rộng: 12 m
– Mớn nước: 3,9 m
– Động lực đẩy: 2 tuabin hướng trục, 3 nồi hơi 60.000 shp (44.742 kW)
– Tốc độ: 36,5 hl/g (67,6 km/h)
– Phạm vi hoạt động: 4.080 hl (7.556 km) ở tốc độ 16 hl/g (30 km/h)
– Quân số: 286 người
– Khí tài:
+ radar: Gyus-1, Ryf-1, Redan-2, Vympel-2
+ sonar: Tamir-5h
– Vũ khí:
+ 2 × 2 130 mm
+ 1 x 2 85 mm (phòng không )
+ 7 × 1 37 mm AA
+ 2 x 5 ống phóng ngư lôi 533 mm
+ 60 x quả mìn hoặc 52 lượng nổ ngầm.
Lớp Skory là những tàu khu trục đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Liên Xô sau Thế chiến II. 70 tàu được đóng từ năm 1949 đến năm 1953. Tên gọi của Liên Xô là Project 30bis.
Quá trình hiện đại hóa bao gồm loại bỏ một bộ ống phóng ngư lôi, thay thế pháo 37 mm bằng pháo 57 mm và bổ sung tên lửa chống ngầm RBU 2500.
Các con tàu được phát triển từ tàu khu trục lớp Ognevoy Project 30, nhưng lớn hơn một chút với khả năng bám biển tốt hơn và sức chịu đựng tăng lên đáng kể. Những con tàu này được đóng khung theo chiều dọc và hàn hoàn toàn. Các con tàu được đóng trong 101 phần chế tạo sẵn theo mô-đun dẫn đến thời gian đóng nhanh chóng. Máy móc và dàn vũ khí chính về cơ bản giống với những chiếc thuộc lớp tàu khu trục Ognevoy nhưng các nồi hơi sử dụng mớn nước cưỡng bức để tăng sức mạnh.
Các con tàu được hiện đại hóa vào những năm 1950 với súng phòng không và súng cối chống ngầm mới và các cảm biến được cập nhật (radar và sonar mới). Một dãy ống phóng ngư lôi đã được dỡ bỏ và bổ sung thêm chỗ ở (boong sinh hoạt).
70 tàu đã được chế tạo cho cả Hải quân Liên Xô và xuất khẩu, đây là đợt sản xuất lớn nhất đối với bất kỳ tàu chiến mặt nước lớn nào của Liên Xô./.