Phi đoàn quân đội (army squadron) về mặt lịch sử là một tiểu đơn vị kỵ binh (cavalry subunit), một đội hình quân sự có quy mô đại đội (company) hoặc tiểu đoàn (battalion). Thuật ngữ này vẫn được sử dụng để chỉ các đơn vị kỵ binh hiện đại và cũng được các lực lượng và quân chủng khác sử dụng (thường là không quân, cũng như hải quân). Ở một số quốc gia, bao gồm cả Ý, tên của đơn vị kỵ binh cấp tiểu đoàn được dịch là “squadron group” (liên phi đoàn).
Hoa Kỳ
Trong Quân đội Hoa Kỳ hiện đại, một phi đoàn là một lực lượng kỵ binh thiết giáp, kỵ binh không quân hoặc đơn vị trinh sát khác có vai trò tổ chức tương tự như một tiểu đoàn và được chỉ huy bởi một trung tá (lieutenant colonel).
Trước khi có sự điều chỉnh trong cơ cấu của Quân đội Hoa Kỳ vào những năm 1880, các trung đoàn Kỵ binh Hoa Kỳ được chia thành các đại đội, và tiểu đoàn là một tên gọi hành chính chỉ được sử dụng trong đồn trú. Các cuộc tái tổ chức đã chuyển đổi các đại đội thành quân đội và tiểu đoàn thành phi đoàn, và biến các phi đoàn thành đội hình chiến thuật cũng như đội hình hành chính.
Khối thịnh vượng chung
Trong Quân đội Anh và nhiều quân đội Khối thịnh vượng chung khác, một phi đoàn (squadron) là đối tác của Quân đoàn Thiết giáp Hoàng gia với một đại đội (company) bộ binh hoặc một khẩu đội pháo binh (artillery battery). Một phi đoàn là một đơn vị phụ của một đội hình có quy mô tiểu đoàn (thường là một trung đoàn) và thường bao gồm hai hoặc nhiều toán quân (troops).
Tên gọi này cũng được sử dụng cho các đơn vị cấp đại đội trong Lực lượng Không quân Đặc biệt, Trung đoàn Trinh sát Đặc biệt, Đại đội Pháo binh Danh dự, Công binh Hoàng gia, Quân đoàn Tín hiệu Hoàng gia, Quân đoàn Y tế Hoàng gia, Trung đoàn Không quân Hoàng gia và Quân đoàn Hậu cần Hoàng gia và trong Quân đoàn Vận tải Hoàng gia đã giải thể.
Các phi đoàn thường được chỉ định bằng chữ cái hoặc số (ví dụ: Phi đoàn số 1 hoặc Phi đoàn A), đôi khi có tên theo bảng chữ cái (Ajax, Badger…). Chúng cũng được chỉ định theo vai trò của chúng: “Phi đoàn tín hiệu 519”, “Phi đoàn giao xe tăng”. Ở một số đơn vị của Quân đội Anh, theo truyền thống, các phi đoàn cũng được đặt tên theo một trận chiến lịch sử quan trọng mà trung đoàn đã tham gia. Ví dụ, Trung đoàn huấn luyện Thiết giáp Hoàng gia phân công các học viên vào Phi đoàn “Waterloo”, được đặt tên để vinh danh tầm quan trọng của kỵ binh trong chiến thắng của quân Đồng minh trước Napoleon. Trong một số trường hợp đặc biệt, các phi đoàn cũng có thể được đặt tên theo một vinh dự độc đáo đã được trao cho đơn vị.
Pháp
Quân đội Pháp hiện đại bao gồm các troupes à pied (lính bộ binh bao gồm bộ binh và công binh chiến đấu) và troupes à cheval (lính kỵ binh như các đơn vị kỵ binh thiết giáp và các đơn vị vận tải). Ngày nay, thuật ngữ escadron (phi đoàn) được sử dụng để mô tả một đại đội (compagnie) gồm những người lính kỵ binh nhưng trong một thời gian dài, một escadron kỵ binh tương ứng với một tiểu đoàn bộ binh, cả hai đơn vị đều nhóm nhiều đại đội (tiểu đoàn và escadron là các đơn vị chiến thuật trong khi các đại đội là các đơn vị hành chính). Thuật ngữ compagnie đã không còn được sử dụng nữa và được thay thế bằng escadron trong các đơn vị kỵ binh kể từ năm 1815 và trong các đơn vị vận tải kể từ năm 1968.
Trong “lực lượng kỵ binh”, một đại úy (captain) phụ trách một escadron do đó được gọi là chef d’escadron (là một danh hiệu, không phải là một cấp bậc). Tuy nhiên, cấp trên của ông ta trong hệ thống phân cấp có cấp bậc chef d’escadrons (cấp bậc tương đương trong các đơn vị bộ binh là chef de bataillon). Sau năm 1815 (thực tế là khoảng năm 1826), quân đội bắt đầu viết chef d’escadrons với chữ s trong các đơn vị kỵ binh để phản ánh thực tế là viên sĩ quan này từng phụ trách một phi đoàn (nhiều đại đội trước năm 1815) giờ đây phụ trách một số phi đoàn (tức là các đại đội). Trong các nhánh kỵ binh khác (như hiến binh và pháo binh), chef d’escadron vẫn được viết mà không có chữ s.
Na Uy
Quân đội Na Uy hoạt động với các đơn vị gọi là eskadroner (số nhiều), thường là đơn vị tương đương với một đại đội (company), chủ yếu là các đơn vị kỵ binh bọc thép mặc dù không phải lúc nào cũng vậy.
Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn Nord, có một đơn vị tương đương đại đội gọi là kavalerieskadronen, hay “phi đoàn kỵ binh”. Đơn vị này đóng vai trò là đơn vị trinh sát chính trong tiểu đoàn. Giống như các đơn vị bộ binh cơ giới, đơn vị này đội mũ nồi màu kaki đặc trưng của tiểu đoàn thay vì màu đen thông thường của các đơn vị kỵ binh.
Tiểu đoàn Thiết giáp (Panserbataljonen) có phần lớn các thành phần được gắn nhãn là eskadroner. Bao gồm Phi đoàn Kỵ binh, Phi đoàn Thiết giáp và Phi đoàn Tấn công. Nó cũng bao gồm thành phần Hỗ trợ của tiểu đoàn, Phi đoàn Hỗ trợ Chiến đấu. Các thành viên của nó cũng được gọi là dragoon, phản ánh bản chất của đơn vị.
Tiểu đoàn Telemark cũng có một số đơn vị được gắn nhãn là eskadroner. Bao gồm Phi đoàn thiết giáp, Phi đoàn kỵ binh và Phi đoàn hỗ trợ chiến đấu.
Kampeskadronen (tạm dịch là “Phi đoàn chiến đấu”), một Phi đoàn gồm 2 Trung đội bộ binh cơ giới, được trang bị CV90, một Trung đội thiết giáp với Leopard 2 và một Đơn vị hỗ trợ quân vụ chiến đấu. Những người lính của nó được gọi là lính kỵ binh (dragoons) và chủ yếu bao gồm những người lính nghĩa vụ. Được sử dụng làm OPFOR trong các hoạt động tập trận với các bộ phận khác của Quân đội Na Uy.
Ba Lan
Phi đoàn (szwadron) được sử dụng riêng cho các đại đội kỵ binh và kỵ binh thiết giáp trước năm 1948. Sau năm 1948, tên này đã được sử dụng cho các đội hình thiết giáp có nhiều quy mô khác nhau.
Nga
Trong kỵ binh Nga, một phi đoàn được đặt tên là эскадрон, và là một đơn vị cỡ đại đội, với 120-150 con ngựa.
Thụy Điển
Trong kỵ binh Thụy Điển, skvadron có nghĩa là một đơn vị có cùng quy mô với kompani trong phần còn lại của quân đội (khoảng một trăm người). Ngoài ra, các đơn vị Jägar và cảnh sát quân sự có thể có các “squadron” (phi đoàn)./.