HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA

Tổng quan:
– Thành lập: 1952
– Giải tán: 30/4/1975
– Vai trò: kiểm soát biển
– Quy mô: 42.000 người, 1.400 tàu, thuyền và các phương tiện khác (1973)
– Trực thuộc: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
– Trụ sở: Sài Gòn
– Biệt danh: “HQVNCH” (“RVNN” trong tiếng Anh)
– Phương châm: “Tổ quốc – Đại dương”
– Ngày kỷ niệm: 20/8
– Tham chiến: Chiến tranh Việt Nam; Nội chiến Campuchia; Trận quần đảo Hoàng Sa
– Chỉ huy đáng chú ý: Trần Văn Chơn; Cao Văn Viên; Lâm Ngươn Tánh; Chung Tấn Cang.

Hải quân Việt Nam Cộng hòa (tiếng Anh: Republic of Vietnam Navy, viết tắt là RVNN) là chi nhánh hải quân của quân đội miền Nam Việt Nam, lực lượng vũ trang chính thức của Việt Nam Cộng hòa (hay Nam Việt Nam cũ) từ năm 1955 đến năm 1975. Hạm đội ban đầu bao gồm các tàu từ Pháp; sau năm 1955, và việc chuyển giao các lực lượng vũ trang cho Việt Nam kiểm soát, hạm đội được cung cấp từ Hoa Kỳ. Với sự trợ giúp của Mỹ, năm 1972, RVNN trở thành lực lượng hải quân lớn nhất Đông Nam Á và, theo một số ước tính, là lực lượng hải quân lớn thứ tư trên thế giới, chỉ sau Liên Xô, Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Với 42.000 nhân viên, 672 tàu đổ bộ các loại, 20 tàu tác chiến mìn, 450 tàu tuần tra, 56 tàu phục vụ và 242 ghe thuyền khác. Các nguồn khác nói rằng RVNN là lực lượng hải quân lớn thứ 9 trên thế giới. Hải quân Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm bảo vệ các vùng biển, hải đảo quốc gia và lợi ích kinh tế hàng hải của đất nước, cũng như phối hợp với cảnh sát biển, hải quan và lực lượng biên phòng trên biển.

Hải quân Việt Nam Cộng hòa tan rã vào năm 1975 với sự sụp đổ của Nam Việt Nam, và chiến thắng của Bắc Việt trong Chiến tranh Việt Nam. Hầu hết hạm đội của nó đã bị bắt tại cảng, nhưng một hạm đội nhỏ do Thuyền trưởng Đỗ Kiếm và Richard L. Armitage của Văn phòng Tùy viên Quốc phòng Sài Gòn chỉ huy, đã trốn thoát sang Thái Lan và gia nhập vào lực lượng hải quân Mỹ ở đó. Một số tàu của VNCH bị đánh chìm khi ra biển khơi, trong khi những chiếc khác tiếp tục phục vụ trong Hải quân Philippines.

Lịch sử

Sự thành lập

Nguồn gốc của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (RVNN) bắt đầu từ năm 1952 với Hải quân Pháp. Năm 1954, theo Hiệp định Élysée, Pháp trao quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang cho Việt Nam, nhưng theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam, tiếp tục phụ trách hải quân cho đến ngày 20/8/1955. Vào thời điểm này, Hải quân có khoảng 2.000 nhân viên, với 22 tàu. Người Việt Nam sau đó đã nhận được sự hỗ trợ trong việc phát triển RVNN từ Nhóm Cố vấn Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ.

Lực lượng ven biển

Năm 1956, Bắc Việt bắt đầu đưa người và vũ khí vào lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa bằng đường biển. Để đáp lại, RVNN đã thành lập Lực lượng Cảnh sát Duyên hải (còn gọi là Lực lượng Hải thuyền) bao gồm các ghe thuyền do Lực lượng Đặc nhiệm Địa phương điều khiển và các ngư dân địa phương được tuyển dụng, để tuần tra vùng biển xung quanh khu phi quân sự. Lực lượng này sau đó được biết đến với tên gọi Duyên đoàn, và đã tuần tra toàn bộ bờ biển dài 1.900 km. Lực lượng này nằm dưới sự kiểm soát của các Bộ Tư lệnh Quân khu chứ không phải của Hải quân, và mãi đến năm 1965 mới được sáp nhập vào RVNN, lúc đó lực lượng này có hơn 100 tàu.

Mở rộng RVNN
– Năm 1955: 2.000 quân, 22 tàu thuyền.
– Năm 1961: 5.000 quân, 220 tàu thuyền.
– Năm 1964: 8.100 quân.
– Năm 1967: 16.300 quân, 639 tàu thuyền.
– Năm 1973: 42.000 quân, 1.400 tàu thuyền.

Vào cuối những năm 1950, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đang được hiện đại hóa và phát triển, được Hải quân Hoa Kỳ tiếp nhận và huấn luyện. Đến năm 1961, RVNN có một lực lượng gồm 23 tàu, lớn nhất là LSM, 197 tàu và 5.000 quân nhân. Điều này là không đủ để chống lại mối đe dọa xâm nhập ngày càng tăng của đối phương và những năm 1962-1964 được đánh dấu bằng sự mở rộng nhanh chóng; cơ sở huấn luyện, cơ sở sửa chữa, cơ sở hỗ trợ được thành lập; thiết bị và mạng thông tin liên lạc được cải thiện; kiện toàn tổ chức, thủ tục hành chính. Số lượng tàu tăng lên 44 và số lượng nhân viên lên 8.100 người.

Quá trình này tiếp tục và đến cuối năm 1967, quân số của RVNN đã tăng lên 16.300 người, với 65 tàu, cùng với 232 tàu của Nhóm tấn công đường sông (RAG), 290 ghe thuyền và 52 tàu các loại khác. Trong suốt năm 1968, RVNN ưu tiên cải thiện và mở rộng các chương trình huấn luyện của họ với mong muốn nhận được trách nhiệm ngày càng tăng trong nỗ lực chiến tranh cũng như các tài sản bổ sung từ Hoa Kỳ. Đến cuối năm 1968, kế hoạch luân chuyển phần lớn tài sản của Hải quân Hoa Kỳ tại Việt Nam đã được tiến hành.

Chính trị và đảo chính

Chỉ huy trưởng RVNN – Đại tá Hồ Tấn Quyền, là một người ủng hộ trung thành của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Để ngăn cản ông ủng hộ Diệm trong cuộc đảo chính năm 1963 của miền Nam Việt Nam, ông đã bị các sĩ quan RVNN hành quyết vào sáng ngày 1/11/1963.

Trong cuộc đảo chính năm 1965 của Nam Việt Nam, các lực lượng nổi dậy đã bao vây trụ sở của RVNN tại Xưởng Hải quân Sài Gòn, dường như là để bắt giữ chỉ huy RVNN Chung Tấn Cang. Tuy nhiên, việc này không thành công và Cang di chuyển hạm đội đến Căn cứ Nhà Bè để ngăn chặn quân nổi dậy chiếm giữ tàu thuyền.

Việt Nam hóa

Đầu năm 1969, Tổng thống Richard M. Nixon chính thức áp dụng chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”. Bộ phận hải quân, được gọi là “Tăng tốc viện trợ cho người Việt Nam” ACTOV (Accelerated Turnover to the Vietnamese) liên quan đến việc chuyển giao theo giai đoạn hạm đội sông và bờ biển Hoa Kỳ sang Việt Nam, cũng như chỉ huy tác chiến đối với các hoạt động khác nhau. Vào giữa năm 1969, RVNN chịu trách nhiệm duy nhất về các hoạt động tấn công trên sông khi Lực lượng Lưu động đường sông Hoa Kỳ ngừng hoạt động và chuyển giao 64 tàu tấn công ven sông cho RVNN. Ngày 10/10/1969, 80 tàu tuần tra sông PBR (Patrol Boat, Rivers) được chuyển giao cho RVNN tại Xưởng Hải quân Sài Gòn, các PBR được chia thành bốn Nhóm Tuần tra sông RPG (River Patrol Groups) như một phần của Lực lượng Đặc nhiệm 212.

Đến cuối năm 1970, Hải quân Hoa Kỳ ngừng mọi hoạt động trên khắp miền Nam Việt Nam, đã chuyển giao tổng cộng 293 chiếc PBR và 224 tàu tấn công ven sông cho RVNN.

Trong hai năm 1970 và 1971, Hoa Kỳ cũng nhường quyền kiểm soát các cuộc tuần tra duyên hải và biển cả cho RVNN. Bộ chỉ huy Hải quân Hoa Kỳ cũng đã chuyển giao 4 tàu tuần duyên (cutters) của Lực lượng Bảo vệ bờ biển, 1 tàu  khu trục hộ tống cảnh giới radar, 1 LST, và nhiều tàu kiểm soát bến cảng, thủy lôi và tàu hỗ trợ. Đến tháng 8/1972, RVNN nhận trách nhiệm về toàn bộ nỗ lực tuần tra ven biển khi tiếp quản 16 trạm radar ven biển cuối cùng của Hoa Kỳ.

Ngoài tàu thuyền, Hoa Kỳ đã chuyển giao các căn cứ hỗ trợ. Lần thay đổi chỉ huy đầu tiên xảy ra vào tháng 11/1969 tại Mỹ Tho, và lần cuối cùng vào tháng 4/1972 tại Nhà Bè, Bình Thủy, vịnh Cam Ranh và Đà Nẵng. Đến năm 1973, Hải quân Việt Nam Cộng hòa có quân số 42.000 người và hơn 1.400 tàu thuyền.

Kết thúc

Năm 1973 và 1974, do Hiệp định Paris ký kết, Hoa Kỳ đã cắt giảm mạnh viện trợ tài chính cho các lực lượng vũ trang Việt Nam. RVNN buộc phải giảm một nửa các hoạt động tổng thể, và các hoạt động tuần tra và chiến đấu trên sông xuống 70%. Để tiết kiệm nguồn cung cấp, hơn 600 tàu sông và cảng, và 22 tàu đã buộc phải nằm bến.

Vào ngày 19/1/1974, 4 tàu của RVNN đã giao chiến với 4 tàu của Hải quân Trung Quốc (PLAN) nhằm bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, cách Đà Nẵng 200 hl (370 km) về phía đông. Tàu RVNN Nhựt Tảo (HQ-10) bị bắn chìm, Lý Thường Kiệt (HQ-16) bị hư hại nặng, Trần Khánh Dư (HQ-4) và Trần Bình Trọng (HQ-5) bị hư hỏng nhẹ. Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép các đảo, đá.

Mùa xuân năm 1975, quân đội Bắc Việt đánh chiếm toàn bộ miền bắc và miền trung Nam Việt Nam, và cuối cùng Sài Gòn thất thủ vào ngày 30/4/1975. Tuy nhiên, Đại tá Đỗ Kiếm đã bí mật lên kế hoạch và sau đó thực hiện cuộc di tản của một hải đội gồm 35 tàu Hải quân Việt Nam Cộng hòa và các tàu khác, với 30.000 thủy thủ, gia đình của họ và những thường dân khác trên tàu, và gia nhập Hạm đội 7 của Hoa Kỳ khi nó lên đường đến vịnh Subic, Philippines. Hầu hết các tàu Việt Nam sau này được đưa vào Hải quân Philippines, trong đó tàu LSM Lam Giang (HQ-402), sà-lan nhiên liệu HQ-474, tàu pháo Kéo Ngựa (HQ-604) đã bị đánh đắm sau khi ra đến biển khơi và chuyển hàng hóa chở người tị nạn cùng thủy thủ đoàn của họ sang các tàu khác.

Sau chiến tranh, khoảng 1.300 tàu cũ của RVNN bao gồm cả số ghe thuyền đã được Hải quân Nhân dân Việt Nam sử dụng, trở thành lực lượng hải quân lớn nhất Đông Nam Á vào giữa những năm 1980. Một số nhân sự được giữ lại, với 80% Lữ đoàn Hàm Tử trong Hạm đội Bạch Đằng của RVNN là cựu chiến binh VNCH.

Tổ chức

Bộ Tư lệnh Hạm đội

Bộ Tư lệnh Hạm đội RVNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước Tư lệnh Hành quân Hải quân RVNN về tình trạng sẵn sàng của tàu và phương tiện. Tư lệnh Hạm đội phân công và xếp lịch tàu hoạt động tại các Vùng Duyên hải, Vùng Sông ngòi và Đặc khu Rừng Sát. Tất cả các tàu của Bộ chỉ huy Hạm đội đều cập cảng nhà ở Sài Gòn và thường quay trở lại đó sau khi triển khai. Khi được triển khai, quyền kiểm soát hoạt động do chỉ huy khu vực hoặc khu vực tương ứng đảm nhận và các tàu hoạt động từ các cảng sau:
– Vùng Duyên hải I – Đà Nẵng.
– Vùng Duyên hải II – Nha Trang/Quy Nhơn.
– Vùng Duyên hải III – Vũng Tàu/Cần Thơ/Châu Đức.
– Vùng Duyên hải IV – An Thới/Phú Quốc.
– Vùng Đặc khu rừng Sát – Nhà Bè.

Đội tàu

RVNN được tổ chức thành 2 đội tàu: 1 đội tàu tuần tra (Đội I) và 1 đội tàu tiếp vận (Đội II).

Đội I bao gồm các tàu tuần tra, được tổ chức thành 4 hải đội. Các loại tàu tuần tra bao gồm LSSL (Tàu hỗ trợ đổ bộ) và LSIL (Tàu đổ bộ quân) thường chỉ hoạt động ở Khu vực ven sông hoặc Đặc khu rừng Sát; mặc dù đôi khi họ được chỉ định đến 4 Vùng Duyên hải. Các cam kết hoạt động yêu cầu một nửa đội tàu tuần tra phải được triển khai mọi lúc, với mỗi tàu thường tuần tra, trực chiến kéo dài 40-50 ngày trên biển cho một chuyến đi. Các tàu tuần tra của Bộ Tư lệnh hải quân được phân công đến các khu vực ven sông đã hỗ trợ hỏa lực hải quân cũng như tuần tra các tuyến đường thủy chính ở các khu vực ven sông. Một đơn vị tuần tra sông được giao nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu trên sông Mekong đến và đi từ biên giới Campuchia.

Đội II gồm các tàu tiếp vận, chia thành 2 hải đội, yểm trợ cho các đơn vị hải quân và căn cứ trên khắp miền Nam Việt Nam. Các tàu tiếp vận đặt dưới sự điều hành hành chánh của Bộ Tư lệnh Hải quân, và dưới sự điều hành hành quân của Phó Tham mưu trưởng Hậu cần RVNN, người thi hành theo lệnh của Bộ Tư lệnh Tiếp vận Trung ương của Bộ Tổng Tham mưu.

Đào tạo

Cơ sở huấn luyện của RVNN bao gồm Phòng Huấn luyện đặt tại Bộ Tư lệnh RVNN, với các Trung tâm Huấn luyện đặt tại Sài Gòn, Nha Trang và Vịnh Cam Ranh.

Xưởng đóng tàu Hải quân Sài Gòn

Nhà máy đóng tàu Hải quân Sài Gòn rộng 230.000 m2, nằm trên bờ tây nam của sông Sài Gòn cách biển Đông khoảng 48 km, đại diện cho khu liên hợp công nghiệp đơn lẻ lớn nhất ở Đông Nam Á. Xưởng đóng tàu được người Pháp thành lập vào năm 1863 như một cơ sở sửa chữa và tiếp tế lớn. Năm 1969, 1.800 người đã được tuyển dụng ở đó, sửa chữa và đại tu tàu thuyền, giúp RVNN có thể duy trì các cuộc tuần tra bờ biển liên tục.

Tư lệnh RVNN qua các giai đoạn:
Trung tá Lê Quang Mỹ, 1955-1957.
– Trung tá Trần Văn Chơn, 1957-1959.
Đại tá Hồ Tấn Quyền, 1959-1963.
Phó Đề đốc Chung Tấn Cang, 1963-1965.
– Đại tá Trần Văn Phấn, 1965-1966.
Thiếu tướng Cao Văn Viên, 9-10/1966.
– Phó Đề đốc Trần Văn Chơn, 1966-1974.
Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, 2 tháng giữa 1974-1975.
Phó Đô đốc Chung Tấn Cang, 24/3-29/4/1975.

Cấp bậc và phù hiệu

Lưu ý: Cấp tướng (sĩ quan cờ) trong Hải quân VNCH không sử dụng cách gọi “Chuẩn Đô đốc”. Cấp bậc “Rear admiral” gọi là Đề đốc và “Commodore” gọi là Phó Đề đốc.

Bài viết được đề xuất

2 Bình luận

  1. Đề nghị chỉnh sửa những nhóm từ hay từ sau đây : cutters là WHEC của Mỹ, HQVN gọi là khu trục hạm. QLVNCH không có từ hậu cần mà là tiếp vận. HQ/VNCH không có cảnh sát biền mà chỉ có một ngành của bộ binh điều hành các LCM-6, LCM-8 của quân vận mà thôi. Tất cả tàu chiến, phi cơ và trực thăng rời VN từ ngày 30/4/1975 sang Thái Lan hoặc đáp xuống các tàu Mỹ ngoài biển đều được bàn giao lại cho Mỹ theo hiệp ước viện trợ hổ tương nên không có chuyện đầu hàng. RAG là các giang đoàn xung phong. Còn một số từ nữa nhưng vì tôi đã rời VN từ năm 1981 nên không còn nhớ nhiều. Chúc anh may mắn.

    1. Cảm ơn bạn. Tôi sẽ xem lại bản dịch.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *