Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu: Daewoo Heavy Industries Co., Okpo, Geoje
– Nhà vận hành: Hải quân Hàn Quốc; Hải quân Hoàng gia Thái Lan
– Lớp trước: Gangwon
– Lớp sau: Chungmugong Yi Sun-sin
– Lớp dưới: khinh hạm lớp Bhumibol Adulyadej
– Lịch sử xây dựng: 1994-2000
– Trong biên chế: 1998-nay
– Kế hoạch: 12
– Đã hoàn thành: 3
– Đã hủy (không đóng nữa): 9
– Đang hoạt động: 3
– Kiểu loại: tàu khu trục
– Lượng giãn nước: 3.885-3.900 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 135,5 m
– Độ rộng: 14,2 m
– Mớn nước: 4,2 m
– Động lực đẩy:
+ 2 × tuabin khí General Electric LM2500-30
+ 2 × động cơ diesel SsangYong Motor Company 20V 956 TB 82
+ 2 × trục
– Tốc độ: 30 hl/g (56 km/h)
– Phạm vi hoạt động: 4.500 hải lý (8.300 km) ở tốc độ 18 hl/g (33 km/h)
– Quân số: 286
– Khí tài:
+ radar tìm kiếm trên không AN/SPS-49 (V) 2D
+ radar tìm kiếm bề mặt Signal MW 08
+ radar dẫn đường Daewoo SPS-95k
+ 2 × radar điều khiển hỏa lực Signal STIR 180
+ sonar ATLAS DSQS-21BZ gắn trên thân tàu
– Tác chiến điện tử và mồi bẫy:
+ SLQ-25 Nixie kéo mồi nhử ngư lôi
+ 2 × ECM ARGO Systems AR 700 và APECS
+ 4 × bệ phóng nhiễu CSEE DAGAIE Mk 2
– Vũ khí:
+ 1 × OTO Melara 127 mm/54
+ 2 × 30 mm Goalkeeper CIWS
+ 8 × tên lửa Harpoon trong bệ phóng hộp bốn
+ 1 × Mk 48 Mod 2 VLS với 16 tên lửa RIM-7P Sea Sparrow
+ 2 × 3 ống phóng cho ngư lôi Mark 46
– Máy bay chở: 2 × trực thăng Super Lynx.
Tàu khu trục lớp Gwanggaeto thé Great, thường được gọi là KDX-I, là các tàu khu trục, nhưng được một số người phân loại là khinh hạm, do Hải quân Hàn Quốc (ROKN) vận hành. Đây là giai đoạn đầu tiên trong chương trình KDX của ROKN, trong việc chuyển Hải quân Hàn Quốc từ lực lượng phòng vệ bờ biển sang lực lượng hải quân nước xanh.
KDX-I được thiết kế để thay thế các tàu khu trục cũ trong ROKN được chuyển giao từ Hải quân Hoa Kỳ trong những năm 1950 và 1960. Người ta cho rằng đó là một bước ngoặt lớn đối với ROKN ở chỗ việc tung ra chiếc KDX-I đầu tiên có nghĩa là ROKN cuối cùng đã có khả năng phóng sức mạnh của mình ra xa bờ biển. Sau khi hạ thủy con tàu, đã có một sự bùng nổ lớn trong việc Hàn Quốc tham gia quốc tế chống cướp biển và các hoạt động quân sự ngoài chiến tranh.
Mô tả
Hệ thống vũ khí
Vũ khí chính được triển khai bởi các tàu lớp Gwanggaeto the Great là máy bay trực thăng Super Lynx, hoạt động phối hợp với các cảm biến trên tàu để tìm kiếm và tiêu diệt tàu ngầm ở khoảng cách xa so với tàu. Lớp Gwanggaeto the Great cũng mang vũ khí chống ngầm tầm gần dưới dạng ngư lôi Mark 46, được phóng từ ba ống phóng ngư lôi trong các khoang phóng ở hai bên đầu phía trước của nhà chứa máy bay trực thăng. Vai trò chống hạm phụ được hỗ trợ bởi tên lửa đất đối đất RGM-84 Harpoon, được gắn trong 2 ống phóng bốn nòng ở tầng boong chính giữa ống khói và nhà chứa máy bay trực thăng. Để tự vệ phòng không, lớp Gwanggaeto the Great mang 16 RIM-7P Sea Sparrow. Lớp Gwanggaeto the Great cũng mang theo hai Goalkeeper 30 mm để cung cấp khả năng phòng thủ điểm trên tàu trước tên lửa chống hạm và máy bay đang lao tới. Súng chính trên dự báo là súng OTO Melara 127.
Lực đẩy
Lớp Gwanggaeto the Great được trang bị hai tuabin khí General Electric LM2500-30 và 2 động cơ diesel SsangYong 20V 956 TB 82. Lớp Gwanggaeto the Great có thể đạt tốc độ tối đa 30 hl/g.
Sự thi công
Tất cả các tàu khu trục lớp Gwanggaeto the Great đều được chế tạo bởi Công ty Công nghiệp nặng Daewoo tại Geoje, Hàn Quốc. Năm 1989, Daewoo Heavy Industries bắt đầu làm việc trên tàu khu trục 4.000 tấn, hiện là tàu khu trục thứ cấp của hải quân Hàn Quốc, và thành tựu đạt được nhờ kỹ thuật thiết kế 100% của DSME lần đầu tiên ở Hàn Quốc.
Theo kế hoạch, con tàu đầu tiên được đặt ki vào cuối năm 1992 và con tàu được lên kế hoạch hoàn thành vào năm 1996. Nhưng do các nghiên cứu kéo dài đến cuối năm 1993, việc đóng con tàu đầu tiên đã không được bắt đầu cho đến tháng 4/1994 với lần cắt thép đầu tiên tại nhà máy đóng tàu Daewoo ở Okpo.
Hiện đại hóa/Cập nhật giữa vòng đời
Vào ngày 27/4/2016, có thông tin cho rằng lớp KDX-1 sẽ trải qua một đợt nâng cấp giới hạn giữa vòng đời với chi phí 67,41 tỷ Won, nhằm thay thế các thiết bị nước ngoài đã lỗi thời. Hệ thống chỉ huy và kiểm soát ban đầu (hệ thống quản lý chiến đấu BAeSEMA SSCS Mk-7) đã được thay thế bằng hệ thống quản lý chiến đấu của Hệ thống Hanwha (có thể là ICMS của Naval Shield), việc lắp đặt Hệ thống sonar mảng kéo trong nước (TASS, có thể là từ MteQ), Link-16 và đại tu thiết bị chung.
Tàu đầu tiên, ROKS Yang Man-chun đã hoàn thành nâng cấp vào tháng 9/2020 tại DSME, trong khi tàu thứ hai, ROKS Gwanggaeto the Great hoàn thành nâng cấp vào tháng 11/2021 và tàu cuối cùng, ROKS Ulchi Mundok hoàn thành nâng cấp vào tháng 12/2021.
Tàu trong lớp
– ROKS Gwanggaeto the Great (DDH-971, biên chế 24/7/1998.
– ROKS Eulji Mundeok (DDH-972, biên chế 30/8/1999.
– ROKS Yang Man-chun (DDH-973), biên chế 29/6/2000.
Lớp Bhumibol Adulyadej
Khinh hạm lớp Bhumibol Adulyadej là một bản sửa đổi của lớp Gwanggaeto the Great dành cho Hải quân Hoàng gia Thái Lan. Nó khác với lớp Gwanggaeto the Great với việc bổ sung các tính năng tàng hình.
– HTMS Bhumibol Adulyadej (Đang hoạt động).
– HTMS Prasae (Đã hoãn)./.