Những năm 1980, Việt Nam đã gửi đi Liên Xô huấn luyện 2 kíp thủy thủ vận hành tàu ngầm loại này, thậm chí một hải đội đã được thành lập (Hải đội 182), tuy nhiên trước tình hình kinh tế khó khăn, khả năng bảo đảm kỹ thuật hạn chế, những còn tàu ngầm hiện đại đương thời khi đó đã không thể phục vụ trong biên chế của Hải quân Việt Nam.
Tổng quan:
– Nhà vận hành: Hải quân Liên Xô; Trung Quốc; Ai Cập; Ả Rập Syria; Albania; Bungari; Indonesia; Ba Lan; Triều Tiên
– Lớp trước: lớp S
– Lớp sau: Romeo Project 633 (biến thể tuần tra); Juliett Project 651 (biến thể tên lửa)
– Lịch sử xây dựng:
+ 1950-1958 (Liên Xô)
+ 1956-1960 (Trung Quốc)
– Hoàn thành: 236 (215 ở Liên Xô + 21 ở Trung Quốc)
– Bảo quản: 2
– Kiểu loại: tàu ngầm tấn công diesel-điện
– Lượng giãn nước:
+ 1.050 tấn (khi nổi)
+ 1.340 tấn (khi lặn)
– Chiều dài: 76 m
– Độ rộng: 6,3-6,5 m
– Mớn nước: 4,55 m
– Động lực đẩy:
+ Động cơ diesel-điện
+ 2 x trục
+ 2 x động cơ diesel 4.000 bhp (3.000 kW)
+ 2 x động cơ điện chính 2.700 mã lực (2.000 kW)
+ 2 × 100 mã lực (75 kW) động cơ điện kinh tế ít ồn
– Tốc độ:
+ 18,25 hl/g (33,80 km/h) khi nổi
+ 13,1 hl/g (24,3 km/h) khi lặn
– Phạm vi hoạt động:
+ 8.580 hl (15.890 km) ở tốc độ 10 hl/g (19 km/h) khi nổi
+ 335 hl (620 km) ở 3 hl/g (5,6 km/h) khi lặn
– Độ bền: 166 giờ (khi ngầm)
– Thủy thủ đoàn: 52
– Vũ khí:
+ 6 ống phóng ngư lôi 533 mm (4 mũi + 2 lái) cho:
+ 12 × ngư lôi hoặc
+ 22 × mìn (thủy lôi)
+ 1 × súng phòng không 25 mm (nòng đơn)
+ 2 × súng phòng không 57 mm (nòng đơn).
Tàu ngầm lớp Whiskey là tên gọi của NATO (Liên Xô gọi là Project 613, 640, 644 và 665) là một lớp tàu ngầm tấn công diesel-điện mà Liên Xô chế tạo vào đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Thiết kế ban đầu được phát triển vào đầu những năm 1940 như một phiên bản đi biển tiếp theo của tàu ngầm lớp S. Từ kinh nghiệm chiến tranh và việc nắm bắt công nghệ của Đức vào cuối chiến tranh, Liên Xô đã ban hành một yêu cầu thiết kế mới vào năm 1946. Thiết kế sửa đổi được phát triển bởi Cục thiết kế Lazurit có trụ sở tại Gorkiy. Giống như hầu hết các tàu ngầm thông thường được thiết kế từ năm 1946-1960, thiết kế này chịu ảnh hưởng nặng nề của U-boat Type XXI.
Biến thể tuần tra
Từ năm 1949 đến năm 1958, tổng cộng có 236 trong tổng số 340 tàu ngầm loại này được đưa vào biên chế Hải quân Liên Xô. Các tàu ban đầu được thiết kế như tàu ngầm tuần tra ven biển. Các biến thể tuần tra này được biết đến ở phương Tây với tên gọi Whiskey I, II, III, IV và V và được gọi là Project 613 ở Liên Xô.
Whiskey I – trang bị pháo đôi 25 mm trong tháp chỉ huy
Whiskey II – pháo đôi 57 mm và pháo đôi 25 mm
Whiskey III – bỏ pháo
Whiskey IV – pháo 25 mm
Whiskey V – không pháo – tháp chỉ huy và ống hút khí được sắp xếp điều chỉnh
Biến thể tên lửa
Trong những năm 1950 và 1960, một số tàu ngầm Whiskey đã được chuyển đổi thành tàu ngầm tên lửa dẫn đường, với khả năng bắn từ 1 đến 4 tên lửa hành trình SS-N-3 Shaddock (P-5 Pyatyorka). Năm 1956, nguyên mẫu đầu tiên đã sẵn sàng. Đó là một lớp Whiskey thông thường được sửa đổi với một ống phóng phía sau tháp chỉ huy chứa một SS-N-3c duy nhất. Loại bình này được biết đến ở phương Tây với tên gọi Whiskey Single Cylinder. Từ năm 1958 đến năm 1960, thêm 6 tàu ngầm lớp Whiskey được chuyển đổi để mang tên lửa dẫn đường. Những chiếc tàu này có 2 ống phóng tên lửa phía sau tháp chỉ huy, và được biết đến ở phương Tây với tên gọi Whiskey Twin Cylinder, và những chiếc tàu Project 644 của Liên Xô.
Từ năm 1960 đến năm 1963, 6 chiếc tàu đã nhận được một tháp chỉ huy mở rộng có thể chứa 4 tên lửa Shaddock. Chúng được gọi là Whisky Long Bin ở phương Tây và Project 665 ở Liên Xô. Tất cả các biến thể tên lửa dẫn đường của lớp Whiskey đều mang tên lửa tấn công mặt đất P-5 (tên NATO là SS-N-3c Shaddock) nhưng chúng phải nổi lên để bắn tên lửa. Những chiếc tàu thuộc lớp xi-lanh đơn và đôi cũng phải nâng ống phóng tên lửa, thường được đặt theo chiều ngang.
Các tàu “Long Bin” xử lý không tốt, với các ống phóng gây ra các vấn đề về độ ổn định và dòng nước xung quanh các phụ kiện tên lửa rất ồn. Tất cả đã sớm nghỉ hưu. 4 chiếc đã được chuyển đổi thành tàu trinh sát radar Project 640 (được gọi là Whiskey Canvas Bag ở phương Tây). Hai chiếc được chuyển đổi cho mục đích “nghiên cứu ngư nghiệp” và “nghiên cứu hải dương học”. Trong Hải quân Liên Xô, các biến thể tuần tra của lớp này được thay thế bằng lớp Romeo. Các biến thể tên lửa dẫn đường đã được thay thế bằng lớp Juliett.
Chương trình sản xuất
Tàu ngầm lớp Whiskey của Hải quân Indonesia KRI Pasopati đặt trên bệ ở ven sông Surabaya
Liên Xô đã chế tạo tổng cộng 236 hoặc 215 chiếc Whiskey (các nguồn khác nhau; có vẻ như 21 chiếc tàu đầu tiên do Trung Quốc đóng thường đi kèm với những chiếc của Liên Xô). Phó Đô đốc Burov, người đứng đầu Viện Đóng tàu Bộ Quốc phòng Liên Xô từ năm 1969 đến năm 1983, xác nhận 215 chiếc đã được chế tạo.
– Gorkiy: 116 chiếc
– Nikolayev: 72 chiếc
– Baltic: 16 chiếc
– Komsomolsk: 11 chiếc
Tổng cộng: 215 chiếc
Tàu ngầm tuần tra lớp Whiskey được xuất khẩu sang 7 nước, tất cả đều dừng hoạt động.
– Albania (4 tàu).
– Bulgaria (2 tàu).
– Trung Quốc (5 tàu và 21 chiếc khác được chế tạo trong nước từ các bộ phận do Liên Xô cung cấp, được gọi là Type 033).
– Ai Cập (7 tàu).
– Indonesia (12 tàu, và 2 tàu là nguồn cung cấp phụ tùng).
– Triều Tiên (4 tàu).
– Ba Lan (4 tàu).
Cuba và Syria đã đặt hàng các tàu ngầm lớp Whiskey đã qua sử dụng để làm thân tàu nạp ắc-quy. Các tàu của Hải quân Syria là S-167, S-171 và S-183 của Hải quân Liên Xô cũ. Hải quân Cuba đã mua 1 chiếc cũ của Liên Xô để huấn luyện tàu ngầm lớp Foxtrot. Các tàu phóng tên lửa dẫn đường và radar chưa bao giờ được xuất khẩu.
Đến năm 1982, Hải quân Liên Xô chỉ còn 60 chiếc (45 chiếc đang hoạt động, 15 chiếc dự trữ); tất cả đều đã nghỉ hưu vào cuối Chiến tranh Lạnh.
Sự cố liên quan đến tàu ngầm lớp Whiskey
– Vào ngày 27/1/1961, S-80 đã bị tai nạn do nước vào mất kiểm soát trong khi hành trình chế độ hút khí.
– Vào ngày 24/11/1972, tàu ngầm lớp Kobben KNM Sklinna của Hải quân Hoàng gia Na Uy đã “liên lạc” với thứ mà họ cho là tàu ngầm lớp Whiskey, sau 14 ngày “săn lùng” ở Sognefjord. Các tài liệu quân sự được công bố vào năm 2009 đã xác nhận tình tiết này.
– Vào ngày 21/10/1981, S-178 bị tàu buôn Refrizherator-13 đâm chìm ở Golden Horn Bay, Vladivostok.
– Vào ngày 27/10/1981, S-363 mắc cạn trong lãnh hải Thụy Điển gần căn cứ hải quân Karlskrona.
– Ngày 19/6/1984, một chiếc tàu ngầm lớp Whiskey mắc vào lưới đánh cá và nổi lên trong vùng đặc quyền kinh tế của Na Uy.
– Vào ngày 14/12/1989, một chiếc tàu ngầm Liên Xô lớp Whiskey đã ngừng hoạt động được lai dắt để tháo dỡ ở Nakskov đã bị chìm cách Bornholm 2 dặm về phía tây. Nỗ lực nâng nó lên vào năm 1991 đã thất bại và nó chìm gần đó ở vùng nước sâu hơn.
– Vào ngày 5/2/2007, chiếc S-194 ngừng hoạt động đã nổi lên mặt nước và chìm ngoài khơi bờ biển Đan Mạch khi đang được kéo để trở thành một phần của bảo tàng hải quân.
– Vào năm 2009, một chiếc tàu ngầm lớp Whiskey bị chìm trước đây chưa từng được biết đến và không xác định được đã được phát hiện trong vùng đặc quyền kinh tế của Thụy Điển gần đảo Gotland. Đó là một chiếc tàu ngầm đã ngừng hoạt động bị chìm khi đang được kéo để tháo dỡ ở Đan Mạch. Tin tức về phát hiện này không được công khai cho đến tháng 3/2011.
Bảo tàng
– S-189 được bảo tồn như một bảo tàng ở Saint Petersburg, Nga.
– KRI Pasopati (ex- S-290 ) được bảo quản ở Surabaya, Indonesia./.