Chiến lược hải quân (Naval strategy) là việc lập kế hoạch và tiến hành chiến tranh trên biển, tương đương với chiến lược quân sự trên đất liền của hải quân.
Chiến lược hải quân và khái niệm liên quan đến chiến lược hàng hải, chiến lược tổng thể để đạt được chiến thắng trên biển, bao gồm việc lập kế hoạch và tiến hành các chiến dịch, việc di chuyển và bố trí lực lượng hải quân để người chỉ huy đảm bảo lợi thế chiến đấu ở một địa điểm thuận tiện cho việc tiếp cận của bản thân và sự lừa dối của kẻ thù. Chiến thuật hải quân đề cập đến việc thực hiện các kế hoạch và điều động tàu hoặc hạm đội trong trận chiến.
Nguyên tắc
Mục đích lớn nhất của một hạm đội trong chiến tranh là phải giữ cho bờ biển của đất nước mình không bị tấn công, đảm bảo quyền tự do thương mại và tiêu diệt hạm đội của kẻ thù hoặc giam giữ nó ở cảng. Mục tiêu thứ nhất và thứ hai trong số này có thể đạt được bằng cách đạt được thành công mục tiêu thứ ba – tiêu diệt hoặc làm tê liệt hạm đội kẻ thù. Một hạm đội đảm bảo quyền tự do liên lạc của mình khỏi bị tấn công được cho là có quyền chỉ huy trên biển.
Chiến lược hải quân về cơ bản khác với chiến lược quân sự trên bộ. Trên biển không có lãnh thổ để chiếm giữ. Ngoài nghề cá và gần đây hơn là các mỏ dầu ngoài khơi, không có tài sản kinh tế nào có thể bị kẻ thù từ chối và không có nguồn tài nguyên nào mà một hạm đội có thể khai thác. Đối với một đội quân để có thể tồn tại ngoài đất liền, hạm đội phải dựa vào nguồn cung cấp nào đó mà nó mang theo hoặc có thể được đưa đến.
Nguồn gốc
Torrington và hạm đội đang tồn tại
Đô đốc người Anh, Bá tước Torrington được cho là đã tạo ra hạm đội. Đối mặt với một hạm đội Pháp vượt trội rõ ràng vào mùa hè năm 1690 trong Chiến tranh của Liên minh lớn, Torrington đề xuất tránh trận chiến, ngoại trừ những điều kiện rất thuận lợi, cho đến khi có quân tiếp viện. Bằng cách duy trì hạm đội của mình, ông sẽ ngăn chặn người Pháp giành quyền kiểm soát vùng biển, điều này sẽ cho phép họ xâm chiếm nước Anh. Tuy nhiên, Torrington buộc phải chiến đấu trong Trận Beachy Head (tháng 6/1690), một chiến thắng của Pháp giúp Paris kiểm soát eo biển Manche chỉ trong vài tuần.
Mở màn của cuộc chiến thương mại
Vào giữa những năm 1690, các hãng tư nhân từ các cảng Đại Tây Dương của Pháp, đặc biệt là St. Malo và Dunkirk, là mối đe dọa lớn đối với thương mại Anh-Hà Lan. Mối đe dọa buộc chính phủ Anh phải chuyển hướng các tàu chiến sang bảo vệ thương mại, khi các đoàn tàu hộ tống và tàu tuần dương truy lùng các tàu tư nhân. Ở Pháp, sự thành công của các tư nhân chống lại nỗ lực chiến tranh Anh-Hà Lan đã kích thích sự chuyển đổi dần dần từ việc sử dụng các tàu chiến Hoàng gia làm hạm đội chiến đấu (guerre d’escadre) sang hỗ trợ cuộc chiến tranh thương mại (guerre de Course). Các đoàn tàu của quân đồng minh đã đưa ra những mục tiêu lớn cho các phi đội đột kích thương mại. Kết quả ấn tượng nhất của sự thay đổi này là cuộc tấn công của Comte de Tourville vào đoàn tàu Smyrna của quân đồng minh vào ngày 17/6/1693.
Bất lợi của chiến lược du kích khi được theo đuổi như một chiến lược của hạm đội, thay vì chỉ sử dụng các tàu nhỏ hơn, là nó khiến thương mại của một quốc gia không được tự vệ. Các phi đội đột kích riêng lẻ cũng dễ bị đánh bại một cách chi tiết nếu kẻ thù cử các phi đội lớn hơn truy đuổi, như đã xảy ra với Leissegues trong Trận San Domingo năm 1806 và Von Spee trong Trận quần đảo Falkland năm 1914.
Hawke, St Vincent và cuộc phong tỏa chặt chẽ
Cho đến sau cuối thế kỷ XVII, người ta cho rằng không thể, hoặc ít nhất là rất vội vã để giữ những con tàu lớn rời cảng trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 5 hoặc tháng 6. Vì vậy, việc liên tục theo dõi kẻ thù bằng cách phong tỏa các cảng của nó là điều vượt quá khả năng của bất kỳ lực lượng hải quân nào. Do đó, vì hạm đội của đối phương có thể ở trên biển trước khi bị chặn lại, nên việc di chuyển của các hạm đội phụ thuộc nhiều vào nhu cầu cung cấp đoàn hộ tống cho hoạt động buôn bán.
Mãi đến giữa thế kỷ XVIII, cuộc phong tỏa liên tục lần đầu tiên được thực hiện bởi Sir Edward Hawke vào năm 1758-1759, và sau đó được Earl St Vincent và các đô đốc người Anh khác thực hiện trong khoảng thời gian từ 1793 đến 1815, mới có thể thực hiện được.
Phát triển
Chỉ đến cuối thế kỷ XIX, các lý thuyết về chiến lược hải quân mới lần đầu tiên được hệ thống hóa, mặc dù các chính khách và đô đốc Anh đã thực hành nó trong nhiều thế kỷ.
Ảnh hưởng của Mahan
Đại tá, sau này là Chuẩn Đô đốc, Alfred Thayer Mahan (1840-1914) là một sĩ quan hải quân và nhà sử học người Mỹ. Bị ảnh hưởng bởi các nguyên tắc chiến lược của Jomini, ông lập luận rằng trong các cuộc chiến sắp tới, việc kiểm soát biển sẽ mang lại sức mạnh để kiểm soát thương mại và các nguồn lực cần thiết để tiến hành chiến tranh. Tiền đề của Mahan là trong các cuộc cạnh tranh giữa Pháp và Anh vào thế kỷ XVIII, sự thống trị trên biển thông qua sức mạnh hải quân là yếu tố quyết định kết quả, và do đó, việc kiểm soát thương mại đường biển chỉ là thứ yếu so với sự thống trị trong chiến tranh. Theo quan điểm của Mahan, một quốc gia có được “quyền chỉ huy biển” bằng cách tập trung lực lượng hải quân vào điểm quyết định để tiêu diệt hoặc làm chủ hạm đội chiến đấu của đối phương; sau đó sẽ phong tỏa các cảng của đối phương và làm gián đoạn thông tin liên lạc hàng hải của đối phương. Mahan tin rằng mục tiêu thực sự trong một cuộc hải chiến luôn là hạm đội của đối phương.
Các bài viết của Mahan có ảnh hưởng lớn. Những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, Ảnh hưởng của sức mạnh biển đối với lịch sử, 1660-1783, và Ảnh hưởng của sức mạnh biển đối với Cách mạng và Đế quốc Pháp, 1793-1812, được xuất bản lần lượt vào năm 1890 và 1892 và các lý thuyết của ông đã đóng góp cuộc đua cho lực lượng hải quân giữa năm 1898 và 1914.
Theodore Roosevelt, bản thân là một nhà sử học thành công về lịch sử hải quân trong Chiến tranh năm 1812, đã theo sát ý tưởng của Mahan. Ông đã kết hợp chúng vào chiến lược hải quân của Mỹ khi giữ chức trợ lý Bộ trưởng Hải quân vào năm 1897-1898. Với tư cách là tổng thống, 1901-1909, Roosevelt đặt ưu tiên cao cho việc xây dựng một hạm đội chiến đấu đẳng cấp thế giới, gửi “hạm đội trắng” của mình đi khắp thế giới vào năm 1908-1909 để đảm bảo tất cả các cường quốc hải quân hiểu rằng Hoa Kỳ hiện là một nước chơi chính. Việc xây dựng Kênh đào Panama được thiết kế không chỉ để mở cửa thương mại Thái Bình Dương tới các thành phố Bờ Đông mà còn cho phép Hải quân mới có thể di chuyển qua lại trên toàn cầu.
Anh em nhà Colombia
Ở Anh, Thuyền trưởng John H. Colomb (1838-1909) trong một loạt bài báo và bài giảng đã lập luận rằng hải quân là thành phần quan trọng nhất trong hệ thống phòng thủ của đế quốc; anh trai của ông, Đô đốc Phillip Colomb (1831-1899), đã tìm cách thiết lập từ lịch sử những quy tắc chung áp dụng cho chiến tranh hải quân hiện đại trong Chiến tranh Hải quân (1891) của ông. Nhưng những bài viết của họ không đạt được thành tựu gì giống như danh tiếng mà Mahan đạt được.
Nguyên tắc của Corbett
Ngài Julian Corbett (1854-1922) là một nhà sử học hải quân người Anh, người đã trở thành giảng viên tại Đại học Chiến tranh Hải quân Hoàng gia ở Anh.
Corbett khác Mahan ở chỗ ít chú trọng hơn đến trận chiến hạm đội. Corbett nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chiến tranh trên biển và trên bộ và có xu hướng tập trung vào tầm quan trọng của liên lạc trên biển hơn là trận chiến. Trận chiến trên biển tự nó không phải là mục đích cuối cùng. Mục tiêu chính của hạm đội là bảo đảm thông tin liên lạc của chính mình và làm gián đoạn thông tin liên lạc của kẻ thù, không nhất thiết phải tìm kiếm và tiêu diệt hạm đội của kẻ thù. Đối với Corbett, quyền chỉ huy biển là tương đối chứ không phải tuyệt đối, có thể được phân loại thành chung hay cục bộ, tạm thời hoặc vĩnh viễn. Corbett đã xác định hai phương pháp cơ bản để giành quyền kiểm soát các đường liên lạc là tiêu diệt hoặc bắt giữ các tàu chiến và thương gia của đối phương hoặc phong tỏa hải quân.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Một số nguyên tắc chiến lược hàng hải, vẫn là một tác phẩm kinh điển.
Tác động của chiến tranh thế giới
Thế chiến I và II đã để lại tác động lớn đến chiến lược hải quân nhờ các công nghệ mới. Với việc tạo ra các tàu hải quân mới như tàu ngầm, các chiến lược như chiến tranh không hạn chế đã có thể được thực hiện và với việc tạo ra nhiên liệu dựa trên dầu, hải quân radar và vô tuyến có thể hoạt động hiệu quả và hiệu quả hơn vì họ có thể di chuyển nhanh hơn, biết đấy nơi kẻ thù tọa lạc và có thể liên lạc dễ dàng.
Chuyển đổi nhiên liệu từ than sang dầu
Trước khi bắt đầu Thế chiến I, nhiều tàu chiến hải quân chạy bằng than và sức người. Điều này rất kém hiệu quả nhưng là cách duy nhất họ có thể cung cấp năng lượng cho những con tàu này vào thời điểm đó. Một nửa thủy thủ đoàn trên những con tàu này ở đó để duy trì than, nhưng dầu được cho là hiệu quả hơn khi số lượng người cần để duy trì nó không nhiều bằng. Với việc sử dụng dầu mới, các tàu chiến đã nhận được rất nhiều lợi ích, có thể di chuyển với tốc độ 17 hl/g. Điều này khác biệt đáng kể so với các tàu 7 hl/g di chuyển trước đây sử dụng than. Than cũng chiếm nhiều không gian hơn trong tàu. Dầu có thể được lưu trữ trong nhiều thùng chứa, nơi tất cả chúng đều di chuyển đến một nơi để sử dụng, không giống như than được chứa trên tàu, trong nhiều phòng và có nhiều phòng nồi hơi.
Thế chiến I
Trước Thế chiến I, đã có một cuộc chạy đua vũ trang hải quân ở châu Âu. Với cuộc chạy đua này mang lại nhiều cải tiến cho hải quân trên khắp châu Âu, vào năm 1906, người Anh đã trình làng một tàu chiến mới mang tính cách mạng mang tên HMS Dreadnought chạy bằng tua-bin hơi nước. Con tàu này đạt tốc độ 21 hl/g, một trong những tốc độ nhanh nhất vào thời điểm đó. Chiếc tàu chiến này cũng có những tiến bộ về vũ khí mà không hải quân quốc gia nào có được vào thời điểm đó. Với điều này, cuộc chạy đua vũ trang đã thay đổi theo hướng quốc gia nào có thể đóng nhiều tàu chiến mới được chế tạo nhất. Với những con tàu mới được trang bị vũ khí hạng nặng này, quân Đồng minh có nhiều cơ hội hơn để phong tỏa ở nhiều chiến trường khác nhau.
Chiến tranh
Tàu ngầm được đưa vào sử dụng trong Thế chiến I đã dẫn đến sự phát triển các loại vũ khí và chiến thuật mới. Theo ý kiến của một số người, hạm đội của Đức vào thời điểm đó là hạm đội tiên tiến nhất và được xây dựng bởi Alfred Peter Friedrich von Tirpitz. Hạm đội bao gồm U-boat và các loại thuyền UB và UC nhỏ hơn.
Chiến tranh không giới hạn trong WW1
Chiến tranh không hạn chế được hải quân Đức giới thiệu lần đầu tiên trong Thế chiến I. Chiến lược này tìm cách đánh chìm các tàu, đặc biệt là tàu vận tải thương mại mà không báo trước. Điều này tỏ ra có tính chất quyết định trong việc Mỹ tham gia cuộc chiến thông qua vụ đánh chìm tàu RMS Lusitania nổi tiếng. Chiến lược này đã gây ra tranh cãi quốc tế do rủi ro đối với thương mại và công dân của các quốc gia trung lập. Trước khi tham chiến, Hoa Kỳ đã vận động Đức hạn chế sử dụng chiến tranh tàu ngầm không hạn chế. Mặc dù điều này khiến Đức phải giảm bớt các hoạt động như vậy trong một thời gian, nhưng chiến lược này cuối cùng đã được tiếp tục lại nhằm cản trở việc cung cấp lương thực và đạn dược cho Anh. Việc nối lại chiến lược này khiến nhiều quốc gia cố gắng cấm sử dụng chiến tranh tàu ngầm không hạn chế sau đó, mặc dù điều này đã thất bại do Thế chiến II bùng nổ.
Tác động công nghệ trong Thế chiến I
Vô tuyến điện
Vô tuyến điện lần đầu tiên được sử dụng trong chiến đấu hải quân trong Thế chiến I. Công nghệ vô tuyến ban đầu không được áp dụng phổ biến vào thời điểm này vì mã Morse thường tỏ ra đáng tin cậy hơn các tín hiệu vô tuyến không nhất quán hoặc không rõ ràng. Hai công nghệ này được sử dụng chung để liên lạc giữa các tàu, căn cứ và bộ chỉ huy hải quân. Công nghệ vô tuyến được cải tiến đã nâng cao đáng kể khả năng tình báo và phối hợp của hải quân bằng cách tăng tốc độ, hiệu quả và phạm vi liên lạc.
Thế chiến II
Chiến tranh tàu ngầm
Chiến tranh không giới hạn trong WW2
Thế chiến II chứng kiến việc sử dụng rộng rãi chiến tranh tàu ngầm không hạn chế. Điều này đặc biệt đáng chú ý trong Trận chiến Đại Tây Dương, khi các cường quốc phe Trục tìm cách hạn chế sự tiếp xúc của Anh và Pháp với các thuộc địa của họ và hạn chế sự tham gia của họ vào mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi Mỹ tham chiến vào năm 1941, các lực lượng Hoa Kỳ đã nhắm mục tiêu vào các hạm đội thương mại và quân sự của phe Trục trên lưu vực Đại Tây Dương và trong Chiến tranh Thái Bình Dương.
Chiến tranh dựa trên tàu sân bay
Tác động công nghệ trong Thế chiến II
Radar
Gần đến Thế chiến II, quân đội đã đạt được khả năng công nghệ và chiến lược mới thông qua việc sử dụng radar. Radar được hải quân sử dụng để phát hiện máy bay và tàu thuyền đi vào vùng ven biển của quốc gia và phát hiện các vật thể đi ngang qua tàu thuyền trên biển. Do đó, hải quân có thể sử dụng radar để phát hiện rõ ràng vị trí tàu địch trước khi tấn công, cũng như biết khi nào kẻ thù đang đến gần để lần lượt tấn công tàu của họ.
Vô tuyến điện
Vô tuyến điện tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong liên lạc hải quân trong Thế chiến II giống như trong Thế chiến I, điểm khác biệt chính là nó được tất cả các tàu chiến áp dụng rộng rãi. Ngoài ra, quân đội còn sử dụng sóng vô tuyến để liên lạc với công chúng.
Thời hiện đại
Chiến lược hải quân ngày càng được hợp nhất với chiến lược chung liên quan đến chiến tranh trên bộ và trên không.
Chiến lược hải quân không ngừng phát triển khi có sẵn các công nghệ cải tiến. Ví dụ, trong Chiến tranh Lạnh, Hải quân Liên Xô đã chuyển từ chiến lược cạnh tranh trực tiếp với NATO để giành quyền kiểm soát các đại dương nước xanh sang phòng thủ tập trung các pháo đài ở Biển Barents và Biển Okhotsk.
Năm 2007, Hải quân Hoa Kỳ đã cùng với Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Cảnh sát biển Hoa Kỳ áp dụng một chiến lược hàng hải mới có tên Chiến lược hợp tác cho sức mạnh biển thế kỷ XXI nhằm nâng cao khái niệm ngăn chặn chiến tranh lên ngang tầm triết lý như việc tiến hành chiến tranh. Chiến lược được trình bày bởi Tư lệnh Tác chiến Hải quân, Tư lệnh Thủy quân lục chiến và Tư lệnh Cảnh sát biển tại Hội nghị chuyên đề về sức mạnh hải quân quốc tế ở Newport, RI. Chiến lược này đã công nhận các liên kết kinh tế của hệ thống toàn cầu và mức độ gián đoạn do các cuộc khủng hoảng khu vực – do con người tạo ra hoặc tự nhiên – có thể tác động xấu đến nền kinh tế và chất lượng cuộc sống của Hoa Kỳ. Chiến lược mới này vạch ra lộ trình để ba lực lượng biển Hoa Kỳ hợp tác chung với nhau và với các đối tác quốc tế nhằm ngăn chặn những cuộc khủng hoảng này xảy ra hoặc phản ứng nhanh chóng nếu xảy ra để tránh tác động tiêu cực đến Hoa Kỳ. Đôi khi lực lượng quân sự được sử dụng như một biện pháp phòng ngừa để tránh chiến tranh chứ không phải gây ra chiến tranh./.
Xem thêm: CHIẾN THUẬT HẢI QUÂN (Naval tactics)