Giữa lúc quan hệ Xô-Trung mặn nồng, Trung Quốc nhận về từ Liên Xô lớp tàu mạnh nhất của lực lượng Hải quân của mình khi đó. Truyền thông Trung Quốc tin rằng đây chính là sát thủ tàu sân bay Mỹ. Đây cũng là lớp tàu giúp cho ngành đóng tàu lạc hậu của Trung Quốc từng bước tiếp cận, học tập và phát triển.
Tổng quan:
– Tên lớp: Sovremenny (Project 956)
– Nhà máy đóng tàu: Zhdanov (Liên Xô)
– Các nhà khai thác: Liên Xô, Nga, Trung Quốc
– Lớp trước:
+ Lớp Kashin Project 61 (Nga)
+ Type 051B (lớp Lữ Hải, Trung Quốc)
– Lớp sau:
+ Lớp Udaloy Project 1155 (Nga)
+ Type 052B (lớp Lữ Dương I, Trung Quốc)
– Được xây dựng: từ năm 1976 đến 2004
– Trong biên chế: 1980 đến nay
– Kế hoạch đóng: 25 chiếc
– Hoàn thành: 21
– Hủy kế hoạch: 4
– Đang hoạt động: 6 (2 trong Hải quân Nga, 4 trong Hải quân Trung Quốc)
– Đã loại biên: 13 (không kể 2 đang đốc sửa)
– Đang bảo tồn: 1
– Kiểu loại: tàu khu trục tên lửa dẫn đường
– Lượng giãn nước: 6.600 tấn (tiêu chuẩn), 8.000 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 156 m
– Độ rộng: 17,3 m
– Mớn nước: 6,5 m
– Động lực đẩy:
+ 2 x tuabin hơi nước, 4 lò hơi, 75.000 kW (100.000 hp)
+ 2 x trục (chân vịt cố định)
+ 2 x máy phát tuabin và
+ 2 x máy phát diesel
– Tốc độ: 32,7 hl/g (60,6 km/h)
– Tầm hoạt động:
+ 3.920 hl (7.260 km) ở 18 hl/g (33 km/h)
+ 1.345 hl (2.491 km) ở 33 hl/g (61 km/h)
– Quân số: 350 người
– Khí tài:
+ Radar thu nhận mục tiêu trên không
+ 3 x radar dẫn đường
+ Radar điều khiển hỏa lực pháo chính 130 mm
+ Radar điều khiển hỏa lực pháo phòng không 30 mm
+ Sonar dưới gắn thân tàu (chủ động và thụ động)
+ ES: Bảng lập kế hoạch tình huống chiến thuật, hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa chống hạm, hệ thống phòng không, hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa và hệ thống điều khiển hỏa lực ngư lôi
+ Tác chiến điện tử & mồi bẫy: 2 máy phân phối mồi nhử PK-2 (200 quả)
– Vũ khí:
+ 4 (2 × 2) AK-130 130 mm – pháo tàu
+ 4 × CIWS AK-630 30 mm
+ 8 (2 × 4) SS-N-22 ‘Sunburn’ – tên lửa chống hạm
+ 48 (2 × 24) tên lửa đất đối không SA-N-7 ‘Gadfly’
+ 2 × 2 ống phóng ngư lôi 533 mm
+ 2 × 6 bệ phóng tên lửa chống ngầm RBU-1000 300 mm
– Trực thăng: 1 × Ka-27
– Sàn đỗ trực thăng.
Tàu lớp Sovremenny là tên gọi khác Project 956 Sarych (Diều hâu), là một lớp chống tàu và chống máy bay khu trục tên lửa dẫn đường của Liên Xô và sau đó là Hải quân Nga. Các con tàu được đặt tên theo phẩm chất, với “Sovremenny” dịch nghĩa là “hiện đại” hoặc “đương đại”. Hầu hết các tàu đã loại biên chế và 1 tàu được chuyển đổi thành tàu bảo tàng vào năm 2018; tính đến năm 2021, 2 chiếc vẫn hoạt động trong Hải quân Nga với một số chiếc đang được đại tu. 4 tàu sửa đổi đã được chuyển giao cho Hải quân Trung Quốc (PLAN) và vẫn được duy trì hoạt động.
Lớp Sovremenny là tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường, chủ yếu có nhiệm vụ chống hạm, đồng thời cung cấp khả năng phòng thủ trên biển và trên không cho các tàu chiến và tàu vận tải được hộ tống. Lớp này được thiết kế để bổ sung cho các tàu khu trục lớp Udaloy, vốn được trang bị chủ yếu cho các hoạt động chống tàu ngầm.
Dự án bắt đầu vào cuối những năm 1960 khi Hải quân Liên Xô nhận thấy rằng pháo tàu vẫn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ các cuộc đổ bộ, nhưng các tàu tuần dương và tàu khu trục mang súng đã dần lạc hậu. Một thiết kế mới đã được bắt đầu, sử dụng tháp pháo tự động 130 mm mới. Các loại nòng đơn và đôi đã được phát triển, và loại nòng đôi được lựa chọn vì tốc độ bắn vượt trội. Năm 1971, văn phòng thiết kế Severnaya đã tiến hành thiết kế “một con tàu có khả năng hỗ trợ đổ bộ”. Cùng lúc đó, Hải quân Hoa Kỳ đang chế tạo lớp Spruance lớn như là tàu khu trục đa năng. Để đối phó với mối đe dọa mới này, Project 956 đã được cập nhật hệ thống phòng không mới và tên lửa chống hạm 3M80 mạnh mẽ. Mặc dù Hải quân Liên Xô phần lớn đã chuyển sang sử dụng động cơ tuabin khí cho các tàu chiến mới của mình, nhưng tuabin hơi nước đã được lựa chọn thay thế cho Project 956: một phần là do sản xuất tuabin khí hải quân sẽ không đủ cho toàn bộ chương trình. Tàu dẫn đầu của lớp, Sovremenny được đặt đóng năm 1976 và đưa vào hoạt động năm 1980. Tổng cộng có 17 chiếc được đóng cho Hải quân Nga, nhưng hiện chỉ có 6 chiếc còn hoạt động do thiếu kinh phí và thủy thủ. Ngoài ra, 2 tàu đang được hiện đại hóa và đại tu và 2 chiếc được đưa vào biên chế. Tất cả các con tàu đều do Severnaya Verf 190 ở St. Petersburg đóng.
Những con tàu này có lượng giãn nước tối đa 7.940 tấn; chiều dài 156 m; rộng 17,3 m; mớn nước 6,5 m. Chúng được trang bị một trực thăng chống ngầm, 48 tên lửa phòng không, 8 tên lửa chống hạm, ngư lôi, mìn, pháo tầm xa và hệ thống tác chiến điện tử tinh vi.
Có tổng cộng ba phiên bản của lớp này: Project 956 ban đầu trang bị phiên bản 3M80 của tên lửa chống hạm Moskit và phiên bản kế nhiệm của nó. Project 956A, được trang bị phiên bản 3M80M cải tiến của Moskit với tầm bắn xa hơn. Sự khác biệt chính giữa hai loại này là các ống phóng tên lửa trên Project 956A dài hơn so với Project 956 để phù hợp với kích thước tăng lên của tên lửa mới hơn, và các ống phóng này cũng có thể được sử dụng để bắn/cất giữ 3M80 ban đầu. Phiên bản thứ ba, Project 956EM, sau đó được phát triển cho Hải Quân Trung Quốc (PLAN) là sự phát triển mới nhất của lớp này. Truyền thông Trung Quốc gọi con tàu là “sát thủ tàu sân bay”.
Hệ thống chiến đấu của tàu có thể sử dụng dữ liệu chỉ định mục tiêu từ các cảm biến chủ động và thụ động của tàu, từ các tàu khác trong hạm đội, từ máy bay giám sát hoặc thông qua liên kết liên lạc từ trực thăng của tàu. Bộ phòng thủ đa kênh có khả năng tấn công nhiều mục tiêu cùng lúc.
Trong Hải quân Trung Quốc
– 136 Hàng Châu (ex-Vazhny), biên chế 25/12/1999, Hạm đội Đông Hải.
– 137 Phúc Châu (ex-Vdumchivy), biên chế 20/11/2000, HđĐH.
– 138 Thái Châu (ex-Vnushitelny), biên chế 28/12/2005, HđĐH.
– 139 Ninh Ba (ex-Vechny), biên chế 27/9/2006, HdĐH./.