Đây chính là loại tàu mà Bắc Việt đã dùng để tấn công tàu khu trục USS Maddox trong Sự kiện Vịnh Bắc bộ ngày 2/8/1964.
Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu: số 609, Tyumen; số 831, Feodosia
– Trong biên chế hải quân các nước: Liên Xô; Albania; Bangladesh; Bulgaria; Bénin; Trung Quốc; Cuba; Síp; Ai Cập; Iraq; Israel; Triều Tiên; Romania; Syria; Somali; Tanzania; Việt Nam; Zairia
– Lớp trước: D-3
– Lớp sau: P-6
– Lịch sử xây dựng: 1944-1955
– Hoàn thành: ~336
– Kiểu loại: tàu (xuồng) phóng lôi có động cơ
– Lượng giãn nước: 22 tấn
– Chiều dài: 18,70 m (B-123); 19,26 m (K-123)
– Mớn nước: 1,0 m
– Động lực đẩy: 2 x động cơ diesel M-50 của Liên Xô, 2.400 mã lực (1.790 kW), 2 trục
– Tốc độ: 46-55 hl/g (85-102 km/h)
– Phạm vi hoạt động: 500 hl (930 km)
– Kíp tàu: 7-12 người
– Khí tài: 1 x Radar dẫn đường Zarnitsa (Skin Head) của Liên Xô (chỉ có ở K-123)
– Vũ khí:
+ 2 x ngư lôi 450 mm
+ 2 x 2 súng máy hạng nặng DShK 12,7 mm hoặc 1 x 2 súng máy hạng nặng KPV 14,5 mm
+ 6 x lượng nổ ngầm BM-1.
Tàu phóng lôi lớp P4, tên định danh của Liên Xô là Project 123-bis và Project 123-K, thường được gọi là lớp Komsomolets (tiếng Nga: Комсомолец, nghĩa là “Nam Đoàn viên (Cộng sản)”), là các tàu phóng lôi vỏ nhôm của Liên Xô. Chúng được trang bị 2 súng máy hạng nặng và 2 ngư lôi 450 mm. Một số lượng lớn đã được xuất khẩu sang các nước đồng minh như Bắc Việt Nam và Trung Quốc. Chúng đã phục vụ trong nhiều cuộc xung đột bao gồm Thế chiến II, Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất, Chiến tranh Việt Nam và Cuộc xâm lược Síp của Thổ Nhĩ Kỳ.
Tàu phóng lôi P4 bao gồm hai loại chính:
– Project 123-bis (B-123) với súng máy 12,7 mm và
– Project 123-K (K-123) có thêm radar và súng máy 14,5 mm.
Thiết kế và phát triển
Tàu phóng lôi P4 được phát triển từ nguyên mẫu tàu phóng lôi Komsomolet trước chiến tranh (Project 123) vào năm 1942 do hiệu suất không đạt yêu cầu của tàu phóng lôi động cơ loại G-5. Project 123 ban đầu là một thiết kế thủy phi cơ một bước được chế tạo từ duralumin giống như G-5. Nguyên mẫu được chế tạo tại xưởng quân sự số 194 Marti ở Leningrad vào năm 1939, và sau khi thực hiện thử nghiệm tốt, nó được dự định sẽ thay thế trước khi cuộc xâm lược của Đức làm dừng lại những kế hoạch đó. So với nguyên mẫu Komsomolet, thiết kế mới, được gọi là Project 123-bis, có thân boong phẳng và được trang bị động cơ xăng Packard do Mỹ cung cấp thay vì Mikulin GAM-34 của Liên Xô.
Vũ khí trang bị bao gồm 2 súng máy hạng nặng DShK nòng đôi 12,7 mm, 2 ống phóng ngư lôi 450 mm và 6 lượng nổ ngầm.
Sau chiến tranh, Project 123-bis được xác định là một trong những thiết kế và sản xuất tàu phóng lôi thành công nhất của Liên Xô. Khi động cơ do Mỹ cung cấp cạn kiệt, những chiếc tàu mới được chế tạo bằng động cơ diesel M-50 của Liên Xô. Một biến thể mới, Project 123-K, được phát triển vào năm 1950, với việc bổ sung một radar và một súng máy nòng đôi 14,5 mm KPV thay thế cho DShK.
Lịch sử phục vụ
Những chiếc tàu phóng lôi P4 đầu tiên được giao cho Hạm đội Baltic của Liên Xô vào năm 1944. Vào ngày 11/4/1945, các tàu TK-131 và TK-141 đã tấn công và đánh trúng một quả ngư lôi vào tàu khu trục Z34 của Đức, mặc dù chúng không thể đánh chìm nó.
Năm 1951, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mua 46 tàu phóng lôi P4 của Liên Xô, biên chế thành 4 lữ đoàn tàu phóng lôi. Tổng cộng có khoảng 81-90 chiếc sẽ được mua từ Liên Xô trong giai đoạn 1950-1955. Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân sẽ sử dụng chúng rộng rãi trong các trận hải chiến với Hải quân Trung Hoa Dân Quốc, đáng chú ý nhất là vào năm 1954 khi 4 tàu phóng lôi P4 đánh chìm khinh hạm lớp Evarts Tai Ping (cựu USS Decker) ngoài khơi Quần đảo Dachen. Tất cả các tàu phóng lôi P4 của Trung Quốc đều đã ngừng hoạt động và 4 chiếc được chuyển giao cho Hải quân Bangladesh vào năm 1983.
Một số đơn vị Trung Quốc còn sót lại đã được chuyển đổi thành phương tiện không người lái mục tiêu và do đó được đưa trở lại hoạt động, hoạt động như các lực lượng hỗ trợ nhỏ được điều khiển bởi các tàu pháo được cải tiến.
12 tàu phóng lôi P4 được xuất khẩu sang miền Bắc Việt Nam vào năm 1961. Ba trong số đó (T-333, T-336 và T-339) đã xuất trận tấn công tàu khu trục lớp Allen M. Sumner USS Maddox của Mỹ xâm nhập lãnh hải Bắc Việt vào ngày 2/8/1964, bắt đầu Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, tất cả các quả lôi được phóng đi đều không trúng đích.
Các tàu T-1 và T-3 của Hải quân Síp đã được điều động để giao chiến với đội tàu đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ trong Chiến dịch Atilla khi nó tiếp cận Kyrenia. Một tàu bị phá hủy do không kích, còn tàu kia bị pháo của các tàu khu trục Thổ Nhĩ Kỳ phá hủy.
Biến thể
– Project 123-bis: còn được gọi là B-123, thiết kế tàu phóng lôi lớp P4 nguyên bản với hai súng máy hạng nặng DShK đôi 12,7 mm và động cơ xăng Packard.
– Project M123-bis: B-123 với động cơ diesel M-50 của Liên Xô.
– Project 123-K: còn gọi là K-123, tàu phóng lôi lớp P4 với súng máy hạng nặng KPV 14,5 mm và radar, lớn hơn một chút so với B-123 với thiết kế cầu khác.
– Project K123-K: Thuyền K-123 được trang bị tàu cánh ngầm phía trước A-10bis.
– Project 123-U: Tàu K-123 cải tạo thành tàu mục tiêu với hệ thống điều khiển từ xa.
– 2 chiếc B-123 được trang bị tàu cánh ngầm phía trước A-10 và A-11.
– 6 chiếc K-123 được chuyển đổi thành pháo hạm, loại bỏ ngư lôi và bổ sung thêm cặp súng máy KPV thứ hai.
Các biến thể của Ai Cập
Project 123-K có bệ phóng tên lửa: Tàu K-123 được trang bị bệ phóng tên lửa 8 nòng. Một ví dụ đã bị Israel bắt giữ.
Tàu còn tồn tại
– 36 ở Baltiysk, Kaliningrad.
– 60 ở Đài tưởng niệm Tàu ngư lôi Komsomolets, St. Petersburg.
– 119 “Tàu cao tốc anh hùng” ở Trại Núi Phượng Hoàng, Thiên Tân.
– 123 ở Kaliningrad.
– 131 tại Bảo tàng Chiến thắng, Moscow.
– 158 “Thuyền phóng lôi công trạng” tại Bảo tàng Quân sự Cách mạng Nhân dân Trung Quốc, Bắc Kinh.
– 341 ở Pamyatnik Geroicheskim Moryakam Chernomortsam, Novorossiysk.
– K-12 ở Ha’apala và Bảo tàng Hải quân Israel, Haifa.
– T-8224 tại Bảo tàng Quân đội Bangladesh, Dhaka.
– 1 chiếc, ở Kaliningrad.
– 1 chiếc, ở Diorama, Sevastopol.
– 1 chiếc, tại Quảng trường Katernikov, Kronstadt./.