ĐẠI ÚY BAY (Flight lieutenant)

Đại úy bay (flight lieutenant, viết tắt – Flt Lt hoặc F/L) là cấp bậc sĩ quan sơ cấp được sử dụng bởi một số lực lượng không quân, có nguồn gốc từ Lực lượng Không quân Hoàng gia (RAF). Cấp bậc này bắt nguồn từ Cơ quan Không quân Hải quân Hoàng gia (RNAS) vào năm 1914. Nó không còn tồn tại khi RNAS hợp nhất với Quân đoàn bay Hoàng gia trong Thế chiến I nhưng được hồi sinh vào năm 1919 trong RAF sau chiến tranh. Cấp bậc này được sử dụng bởi lực lượng không quân của nhiều quốc gia có ảnh hưởng lịch sử của Anh.

Đại úy bay là cấp cao nhất của sĩ quan bay (flying officer) và ngay dưới phi đoàn trưởng (squadron leader). Nó thường tương đương với cấp bậc đại úy (lieutenant) trong hải quân và cấp bậc đại úy (captain) trong các quân chủng khác.

Đây cũng là cấp bậc làm việc chính của các sĩ quan không lực. Các cấp bậc cao hơn, chẳng hạn như phi đoàn trưởng (squadron leader), cấp thiếu tá (major hoặclieutenant commander), hoặc không đoàn trưởng (wing commander), cấp trung tá (lieutenant colonel hoặc commander), liên đoàn trưởng (group captain), cấp đại tá (colonel hoặc captain) có trách nhiệm lãnh đạo và tham mưu ngày càng tăng trong lực lượng không quân.

Một đại úy bay có thể là phi công, sĩ quan hệ thống hàng không vũ trụ (dẫn đường), sĩ quan bảo dưỡng, kiểm soát viên không lưu, sĩ quan tình báo…

Cấp bậc tương đương trong Lực lượng Không quân Nữ (WAAF), Lực lượng Không quân Hoàng gia Nữ (WRAF) và Dịch vụ Điều dưỡng Không quân Hoàng gia của Princess Mary (PMRAFNS) (cho đến năm 1980) là sĩ quan bay (flight officer).

Lịch sử

Lực lượng Không quân Hải quân Hoàng gia

Cấp bậc này có nguồn gốc từ Hải quân Hoàng gia như một danh hiệu cấp bậc dành cho các đại úy hải quân (naval lieutenant) phục vụ trong Lực lượng Không quân Hải quân Hoàng gia (RNAS). Việc thăng cấp bậc này lần đầu tiên được công bố vào ngày 30/6/1914. Nó không còn hiệu lực khi RNAS hợp nhất với Quân đoàn bay Hoàng gia trong Thế chiến I nhưng được hồi sinh vào năm 1919 trong RAF sau chiến tranh.

Ngày 1/4/1918, RAF mới được thành lập đã sử dụng các chức danh sĩ quan từ Quân đội Anh, với các đại úy (lieutenants) của Lực lượng Không quân Hải quân Hoàng gia, có chức danh là đại úy bay (flight lieutenants) và trung tá bay (flight commanders)) và các đại tá (captains) của Quân đoàn Bay Hoàng gia trở thành đại tá (captain) trong RAF. Để đáp lại đề xuất rằng RAF nên sử dụng các tước hiệu cấp bậc của riêng mình, có ý kiến ​​​​cho rằng RAF có thể sử dụng các cấp bậc sĩ quan của Hải quân Hoàng gia, với từ “air” (không quân) được chèn trước chức danh cấp bậc hải quân. Ví dụ, cấp bậc đại úy bay (flight lieutenant) hiện tại sẽ là “air lieutenant” (đại úy không quân). Mặc dù Bộ Hải quân phản đối việc sửa đổi đơn giản này đối với các cấp bậc của họ, nhưng họ đã đồng ý rằng RAF có thể căn cứ nhiều chức danh cấp bậc sĩ quan của mình vào các cấp bậc sĩ quan hải quân với các điều khoản khác nhau trước khi sửa đổi. Cũng có ý kiến ​​​​cho rằng các đại tá (captains) của RAF có thể được bổ nhiệm làm trưởng chuyến bay. Tuy nhiên, cấp bậc đại úy bay đã được chọn vì các phi đội (flights) thường do đại tá RAF chỉ huy và thuật ngữ đại úy bay đã được sử dụng trong Dịch vụ Không quân Hải quân Hoàng gia. Cấp bậc đại úy bay của RAF được giới thiệu vào tháng 8/1919 và nó được sử dụng liên tục kể từ đó.

Cách sử dụng trong RAF

Mặc dù trong những năm đầu của RAF, một đại úy bay chỉ huy một phi đội (flights), với sức mạnh chiến đấu ngày càng tăng của máy bay và do đó các phi đoàn (squadrons), chỉ huy và kiểm soát đã chuyển đổi cơ cấu cấp bậc. Chẳng hạn, hiện nay, hầu hết các chỉ huy phi đội trong RAF đều là không đoàn trưởng (wing commander), phản ánh sức mạnh chiến đấu so sánh giữa lực lượng không quân hiện đại và tiền thân của nó.

Hệ thống thăng cấp của RAF được tự động nâng lên cấp đại úy bay. Mỗi sĩ quan sẽ đạt được cấp bậc nếu họ hoàn thành khóa đào tạo chuyên môn và không về sớm. Đối với phi hành đoàn, thời gian đạt cấp đại úy bay là 2,5 năm sau khi vận hành, những người đăng ký vào Chi nhánh Kỹ thuật (AS & CE) có bằng cử nhân/thạc sĩ hiện hành sẽ đạt được cấp đại úy bay lần lượt là 2,5 và 1,5 năm, và đối với tất cả các sĩ quan chi nhánh mặt đất khác là 3,5 năm. Phi hành đoàn được bổ nhiệm vào Ủy ban thanh toán khởi hành sớm khi đạt đến Đơn vị chuyển đổi hoạt động (Operational Conversion Unit) của họ, đây là bổ nhiệm dành cho 20 năm hoặc 40 tuổi, tùy theo thời điểm nào muộn hơn. Việc thăng chức lên phi đoàn trưởng sau đó là hoàn toàn xứng đáng; các sĩ quan được thăng cấp ngoài đại úy bay được bổ nhiệm vào một ủy ban nghề nghiệp hoặc phục vụ ở độ tuổi 60. Việc từ chức một ủy ban thường phụ thuộc vào nhu cầu của dịch vụ, mặc dù một sĩ quan đã hoàn thành việc quay trở lại phục vụ (dịch vụ mà RAF yêu cầu để chứng minh chi phí của mình trong quá trình đào tạo sĩ quan ban đầu) có thể rời đi sau ít nhất là 4 năm. Đối với phi hành đoàn, do chi phí lớn cần thiết cho việc đào tạo, việc quay trở lại phục vụ này thường là thời gian thực hiện nhiệm vụ ban đầu của họ, trừ khi họ chuyển sang một chi nhánh khác do không đạt được phần huấn luyện bay. Hầu hết các phi hành đoàn đều được bổ nhiệm vào phi đội của họ với tư cách là đại úy bay do thời gian huấn luyện cần thiết kéo dài (lên đến bốn năm đối với phi công máy bay phản lực nhanh) và những khoảng thời gian đáng kể trong quá trình huấn luyện. Phần lớn các phi công của phi đoàn (squadron) là đại úy bay, với một số giám đốc điều hành phi đoàn hoặc phi hành đoàn của Ủy ban Nghề nghiệp có thể đạt tới Phi đoàn trưởng (Squadron Leader).

Ngoài phi hành đoàn, công việc của họ thường không đòi hỏi sự lãnh đạo tích cực cho các đơn vị phi công, các sĩ quan chi nhánh mặt đất có thể mong đợi vận hành các đơn vị có quy mô từ một số hạ sĩ quan chuyên môn đến 50 nhân viên trở lên cho kỹ thuật hoặc các vai trò cần nhiều nhân lực khác. Vai trò của một đại úy bay thường liên quan đến việc quản lý một đội gồm các hạ sĩ quan và phi công chuyên môn, trong chi nhánh cụ thể của họ. Trong Trung đoàn RAF, một đại úy bay thường có vai trò và trách nhiệm giống như một đại úy (captain) trong Quân đội Anh, phụ trách một phi đội (flight) của trung đoàn gồm 30 người và có thể là chỉ huy thứ hai của một phi đoàn (squadron) lên tới 120 người.

Đại úy bay là cấp bậc sĩ quan phổ biến nhất trong RAF; chẳng hạn, vào tháng 4/2013, có 8.230 sĩ quan RAF, trong đó 3.890 (47,3%) là đại úy bay. Trong cách sử dụng không chính thức của RAF, một đại úy bay đôi khi được gọi là “flight lieuy”. Mức lương khởi điểm của đại úy bay là 42.008,48 bảng Anh vào năm 2019.

Học viên Không quân RAF

Trong Quân đoàn Huấn luyện Không quân, một đại úy bay thường là sĩ quan chỉ huy một phi đoàn (squadron), được bổ nhiệm theo Ủy ban Lực lượng Thiếu sinh quân. Đại úy bay đã nghỉ hưu là cấp bậc đầu tiên có thể tiếp tục sử dụng cấp bậc của mình sau khi họ đã rời khỏi quân ngũ.

Phù hiệu

Phù hiệu bao gồm hai dải màu xanh lam hẹp trên các dải màu đen rộng hơn một chút. Nó được mặc ở cả hai tay áo dưới của áo dài hoặc trên vai của bộ đồ bay hoặc đồng phục thông thường. Cấp hiệu trên đồng phục lộn xộn tương tự như mẫu hải quân, là hai dải vàng chạy quanh mỗi cổ tay áo nhưng không có vòng của Hải quân Hoàng gia. Không giống như các sĩ quan cấp cao của RAF, các đại úy bay không được quyền treo cờ chỉ huy trong bất kỳ trường hợp nào.

Canada

Cấp bậc này được sử dụng trong Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada từ năm 1920 cho đến khi Lực lượng Canada thống nhất năm 1968, khi các danh hiệu cấp bậc quân đội được thông qua. Các đại úy bay người Canada sau đó trở thành đại tá (captains). Trong cách sử dụng chính thức của tiếng Pháp ở Canada, chức danh cấp bậc là capitaine d’aviation./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *