CHUẨN ÚY, SĨ QUAN TRUNG CHUYỂN (Midshipman)

Trong thời đại ngày nay, một cách chung nhất, có thể hiểu, midshipmen là đội ngũ các học viên sĩ quan, có thể đã tốt nghiệp một trường đạo tạo sĩ quan hoặc chưa, trong tương lai sẽ trở thành một sĩ quan chính thức.

Chuẩn úy (midshipman) là một sĩ quan có cấp bậc thấp nhất, trong Hải quân Hoàng gia (RN), Hải quân Hoa Kỳ (USN) và nhiều hải quân Khối thịnh vượng chung. Các quốc gia sử dụng cấp bậc này bao gồm Canada, Úc, Bangladesh, Namibia, New Zealand, Nam Phi, Ấn Độ, Pakistan, Singapore, Sri Lanka và Kenya.

Vào thế kỷ XVII, chuẩn úy midshipman là xếp hạng dành cho một người đi biển có kinh nghiệm, và từ này bắt nguồn từ khu vực trên tàu – amidships (phần giữa tàu), nơi anh ta làm việc trên biển hoặc khi tàu neo đậu. Bắt đầu từ thế kỷ XVIII, một chuẩn úy midshipman được coi là sĩ quan, và xếp hạng thủy thủ (seaman) bắt đầu dần mất đi. Vào thời đại Napoléon (1793-1815), một chuẩn úy midshipman là một sĩ quan tập sự (apprentice officer), người trước đó đã phục vụ ít nhất ba năm với tư cách là tình nguyện viên, người hầu của sĩ quan hoặc thủy thủ có năng lực, và gần tương đương với một tiểu sĩ quan (petty officer) ngày nay về thứ hạng và trách nhiệm. Sau khi phục vụ ít nhất 3 năm với tư cách là chuẩn úy hoặc đại phó (master’s mate), anh ta đủ điều kiện dự tuyển cấp đại úy (lieutenant). Việc thăng cấp lên đại úy không phải là tự động, và nhiều chuẩn úy midshipman đã nhận các vị trí như đại phó để được tăng lương và trách nhiệm trên tàu. Chuẩn úy midshipman trong Hải quân Hoa Kỳ được huấn luyện và phục vụ tương tự như chuẩn úy midshipman trong Hải quân Hoàng gia Anh, mặc dù không giống như những người đồng cấp của họ trong Hải quân Hoàng gia, chuẩn úy midshipman là cùng cấp với chuẩn úy warrant officer tận đến năm 1912.

Trong thế kỷ XIX, những thay đổi trong việc đào tạo sĩ quan hải quân ở cả Hải quân Hoàng gia và Hải quân Hoa Kỳ đã dẫn đến việc thay thế sự học việc trên tàu bằng việc học chính quy tại một trường cao đẳng hải quân (naval college). Chuẩn úy midshipman bắt đầu có nghĩa là một officer cadet (học viên sĩ quan) tại một trường cao đẳng hải quân. Các học viên hiện đã trải qua khoảng 4 năm trong trường cao đẳng và 2 năm trên biển trước khi được thăng cấp bậc sĩ quan (commissioned officer). Giữa thế kỷ XIX và giữa thế kỷ XX, thời gian trên biển giảm xuống dưới 1 năm do độ tuổi tham gia tăng từ 12 lên 18.

Các cấp bậc tương đương với chuẩn úy midshipman tồn tại ở nhiều lực lượng hải quân khác. Cách dùng midshipman của Hoa Kỳ hoặc midshipman của hạm đội trước của Vương quốc Anh làm cơ sở để so sánh, cấp bậc tương đương sẽ là học viên hải quân (naval cadet) đang được đào tạo để trở thành sĩ quan. Cách dùng midshipman của hạm đội Vương quốc Anh về sau để so sánh, cấp bậc midshipman sẽ là sĩ quan cấp thấp nhất trong cơ cấu cấp bậc và tương tự như một quân hàm ensign (thiếu úy) của Hoa Kỳ về vai trò và trách nhiệm. Trong nhiều ngôn ngữ lãng mạn, bản dịch theo nghĩa đen của thuật ngữ địa phương cho “midshipman” sang tiếng Anh là “Navy Guard”, bao gồm cả garde marine của Pháp, guardia marina của Tây Ban Nha, guarda-marinha của Bồ Đào Nha, và guardiamarina của Ý. Ngày nay, tất cả các cấp bậc này đều đề cập đến các học viên hải quân (naval cadet), nhưng trong lịch sử, họ được lựa chọn bởi chế độ quân chủ và được huấn luyện chủ yếu trên bộ như những người lính (soldiers).

Hải quân Hoàng gia (1662-1836)

Cấp bậc chuẩn úy midshipman bắt nguồn từ thời đại Tudor và Stuart, và ban đầu đề cập đến vị trí dành cho một thủy thủ có kinh nghiệm được thăng cấp từ những người phụ trách boong bình thường (ordinary deck hands), người làm việc ở giữa cột buồm chính và phụ – có nhiều trách nhiệm hơn một thủy thủ bình thường (ordinary seaman), nhưng không phải là một sĩ quan quân đội hoặc một sĩ quan đang đào tạo. Việc sử dụng thuật ngữ midshipman được công bố lần đầu tiên là vào năm 1662. Từ này bắt nguồn từ một khu vực trên tàu, midships, nhưng nó đề cập đến vị trí nơi những midshipman làm việc trên biển hoặc tại nơi neo đậu.

Đến thế kỷ XVIII, có 4 loại midshipman tồn tại:
midshipman (xếp hạng sơ khai),
midshipman extraordinary (chuẩn úy đặc biệt),
apprentice officer (sĩ quan tập sự), và
midshipman ordinary (chuẩn úy thông thường)

Một số chuẩn úy midshipmen là những nam nhân lớn tuổi, và trong khi hầu hết là các ứng cử viên sĩ quan không vượt qua kỳ thi đại úy hoặc chưa được thăng cấp, một số thành viên của xếp hạng midshipmen ban đầu đã phục vụ, vào cuối năm 1822, cùng với các sĩ quan tập sự mà bản thân họ không có nguyện vọng tham gia một ủy ban. Đến năm 1794, tất cả chuẩn úy midshipmen đều được coi là ứng cử viên sĩ quan và xếp hạng ban đầu đã bị loại bỏ dần.

Đầu vào

Bắt đầu từ năm 1661, những chàng trai khao khát trở thành sĩ quan được gia đình cử đi phục vụ trên những con tàu với “thư phục vụ” từ nhà vua, và được trả lương ngang với chuẩn úy midshipman. Bức thư chỉ đạo các đô đốc và thuyền trưởng rằng người mang nó phải được thể hiện “lòng tốt như ngài sẽ đánh giá là phù hợp với một quý ông, cả trong việc đưa anh ta lên tàu của ngài và giúp anh ta tiến bộ hơn nữa”. Xếp hạng chính thức của họ là tình nguyện viên theo đơn đặt hàng, nhưng họ thường được gọi là những chàng trai có thư của vua (King’s letter boys), để phân biệt tầng lớp xã hội cao hơn của họ với xếp hạng midshipman từ đầu.

Bắt đầu từ năm 1677, các quy định của Hải quân Hoàng gia Anh về việc thăng cấp đại úy (lieutenant) bắt buộc phải phục vụ với tư cách là một midshipman, và việc thăng cấp lên đại úy cần có một thời gian trên biển. Vào thời Napoléon, các quy định yêu cầu ít nhất 3 năm phục vụ với tư cách là midshipman hoặc đại phó (master’s mate) và 6 năm tổng thời gian đi biển. Thời gian đi biển có được theo nhiều cách khác nhau, hầu hết các chàng trai đều phục vụ trên biển trong thời gian này ở bất kỳ mức xếp hạng thấp hơn nào, với tư cách là người hầu của một trong các sĩ quan trên tàu, một tình nguyện viên hoặc một thủy thủ.

Đến những năm 1730, xếp hạng tình nguyện viên theo đơn đặt hàng đã bị loại bỏ dần và được thay thế bằng một hệ thống trong đó những midshipman tương lai làm người hầu cho các sĩ quan. Ví dụ, một thuyền trưởng được phép có 4 người hầu cho mỗi 100 người trên tàu của mình; nhiều người trong số những người hầu này là những chàng trai trẻ được dự định trở thành sĩ quan.

Năm 1729, Học viện Hải quân Hoàng gia (Royal Naval Academy) ở Portsmouth – được đổi tên thành Cao đẳng Hải quân Hoàng gia (Royal Naval College) năm 1806, dành cho 40 học viên trong độ tuổi từ 13 đến 16, những người sẽ mất 3 năm để hoàn thành khóa học được xác định trong một cuốn sách minh họa và sẽ được tính 2 năm thời gian trên biển như là một phần của nghiên cứu của họ. Xếp hạng của chuẩn úy theo đơn đặt hàng (midshipman-by-order), hoặc chuẩn úy thường (midshipman ordinary), được sử dụng đặc biệt cho những học viên tốt nghiệp của Trường Cao đẳng Hải quân Hoàng gia, để phân biệt họ với những chuẩn úy đã từng phục vụ trên tàu, những người được trả thù lao nhiều hơn. Trường học vốn không được ưa chuộng trong Hải quân, bởi vì các sĩ quan được hưởng đặc quyền có người hầu và thích phương pháp đào tạo sĩ quan truyền thống thông qua học việc (coi trọng kinh nghiệm).

Năm 1794, những người hầu của sĩ quan bị bãi bỏ và một lớp tình nguyện viên mới được gọi là “volunteer class I” (tình nguyện hạng nhất) được tạo ra dành cho các cậu bé trong độ tuổi từ 11 đến 13, những người được coi là chuẩn úy midshipmen trong tương lai và sống trong khoang súng trên một tàu trận tuyến (ship-of-the-line) hoặc với chuẩn úy midshipmen trên khinh hạm hoặc tàu nhỏ hơn. Các tình nguyện viên được trả £6 mỗi năm. Đến năm 1816, việc xếp hạng chuẩn úy thường (midshipman ordinary) đã bị loại bỏ dần và tất cả các sĩ quan tập sự (apprentice officers) đều được xếp hạng là chuẩn úy midshipmen.

Địa vị xã hội và đồng phục

Trong Hải quân Hoàng gia thế kỷ XVIII, cấp bậc và vị trí trên tàu được xác định bởi sự kết hợp của hai hệ thống phân cấp, một hệ thống cấp bậc chính thức và sự phân chia xã hội được công nhận theo quy ước giữa các quý ông và những người không phải là quý ông. Những chàng trai khao khát được bổ nhiệm thường được gọi là những quý ông trẻ tuổi thay vì xếp hạng thực chất để phân biệt địa vị xã hội cao hơn của họ với những thủy thủ bình thường. Nói chung, trên hầu hết các tàu chiến, các thủy thủ thông thường được bố trí ở boong tàu, trong khi các sĩ quan được bố trí ở đuôi tàu. Đôi khi, một chuẩn úy sẽ được đưa lên một con tàu với xếp hạng thấp hơn, chẳng hạn như thủy thủ có năng lực nhưng sẽ ăn ngủ với những người ngang hàng với xã hội của mình trong buồng lái.

Khoảng 50% chuẩn úy midshipmen là con trai của những người chuyên nghiệp, bao gồm cả con trai của các sĩ quan hải quân, và có những gia đình đi biển đáng chú ý trong suốt Kỷ nguyên thuyền buồm, chẳng hạn như gia đình Saumarez, HoodParker. Những điều tốt đẹp về sự ưu tiên và thăng tiến khiến mối quan hệ gia đình trở thành một lợi thế rõ ràng đối với các sĩ quan tương lai. Các thành viên của tầng lớp quý tộc và quý tộc địa chủ đã hình thành nhóm lớn nhất tiếp theo, khoảng 27% sĩ quan. Con số nhỏ hơn, nhưng tương tự như vậy, các mối quan hệ của họ mang lại cho họ những triển vọng thăng tiến tuyệt vời và họ có ảnh hưởng đáng kể đến Hải quân Hoàng gia. Một thành viên đáng chú ý của nhóm này là Hoàng tử William, sau này William IV, người từng là chuẩn úy midshipman từ năm 1780 đến năm 1785. Những người còn lại xuất thân từ tầng lớp thương nhân hoặc lao động, và vì những lợi thế mà giới quý tộc và thủy thủ chuyên nghiệp sở hữu, cơ hội thăng cấp đại úy (lieutenant) của họ rất mong manh.

Vì hầu hết những chuẩn úy midshipmen đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc hoặc có quan hệ gia đình với các thuyền buồm, nên nhiều người đã sử dụng mối quan hệ của họ để ghi tên mình vào sổ sách của một con tàu. Việc thực hành, được gọi một cách thông tục là “false muster” (nhầm nghề) là phổ biến mặc dù về mặt kỹ thuật nó là bất hợp pháp và bị phản đối. Điều này thả nổi cho một số cậu bé được thăng cấp lên chuẩn úy midshipman, hoặc trong một số trường hợp là đại úy (lieutenant), mà không cần hoàn thành khoảng thời gian cần thiết trên biển. Một ví dụ đáng chú ý là Thomas Cochrane, người chú đã nhận anh ta khi mới 5 tuổi; tên của anh ta đã được mang trên nhiều con tàu khác nhau cho đến khi anh ấy 18 tuổi và nhận được quyết định bổ nhiệm.

Khi đồng phục được giới thiệu trong Hải quân vào năm 1748, các chuẩn úy midshipmen bắt đầu mặc đồng phục giống như các sĩ quan. Họ cũng bắt đầu đeo huy hiệu cấp bậc truyền thống của mình, một mảnh vải trắng có khuy vàng và một sợi dây trắng xoắn ở mỗi bên cổ áo khoác. Đồng phục nhấn mạnh rằng những midshipmen là các quý ông và sĩ quan trong lực lượng.

Nhiệm vụ và ưu đãi

Các chuẩn úy midshipmen dự kiến ​​​​sẽ làm việc trên tàu, nhưng cũng phải học cách dẫn đường và nghề biển. Với tư cách là những thủy thủ và tình nguyện viên, họ được cho là đã học được cách căng buồm, các nhiệm vụ khác bao gồm canh gác, chuyển tin nhắn giữa các boong, giám sát các khẩu đội súng, chỉ huy các thuyền nhỏ và chỉ huy một phân đội dưới sự giám sát của một trong những đại úy trên tàu. Trên những con tàu nhỏ hơn, những chuẩn úy midshipmen được hướng dẫn bởi đại phó cấp cao (senior master’s mate), thường là một midshipman đã qua đào tạo, người đã dạy họ toán học, hàng hải và phương pháp chèo thuyền. Những con tàu lớn hơn sẽ có một hướng đạo (schoolmaster), người được xếp hạng như là chuẩn úy midshipman nhưng thường là một thường dân như giáo sĩ. Các thủy thủ phải lưu giữ nhật ký đi biển chi tiết, nhật ký này được đưa cho thuyền trưởng để đánh giá tiến trình của họ.

Trước khi được thăng cấp đại úy, một ứng viên sĩ quan trong Hải quân Hoàng gia phải vượt qua kỳ thi. Về mặt chính thức, một đại úy (lieutenant) tương lai phải ít nhất 19 tuổi và phải xuất trình bằng chứng về quá trình phục vụ của anh ta, bao gồm các chứng chỉ từ chỉ huy của anh ta và nhật ký được lưu giữ khi còn là chuẩn úy midshipman. Tuy nhiên, hầu hết các chuẩn úy midshipmen đều mong muốn tham gia kỳ thi đại úy ở tuổi 17 hoặc 18, và độ tuổi điển hình của chuẩn úy midshipman là từ 15 đến 22. Ứng viên được triệu tập trước một hội đồng gồm 3 thuyền trưởng và được hỏi về kỹ năng đi biển, hàng hải và kỷ luật. Hội đồng sẽ hỏi những câu hỏi như: một kẻ thù quan sát được; ra lệnh rời bến và chuẩn bị mọi thứ cần thiết để giao chiến.

Giống như hội đồng, có thể là một công việc đặc biệt, các câu hỏi kiểm tra thực tế không được tiêu chuẩn hóa và nội dung của chúng chủ yếu phụ thuộc vào từng thuyền trưởng. Trong nghề đi biển, ứng viên được cho là có thể nối dây thừng, căng buồm, điều khiển một con tàu đang đi và nắm được thủy triều. Về dẫn đường, anh ta được cho là có thể tính toán đường đi của con tàu bằng cách đánh bánh lái, sử dụng bản đồ phép chiếu Mercator, quan sát mặt trời và các vì sao để xác định hướng đi và vị trí của con tàu, đồng thời hiểu được sự hoạt động của la bàn. Anh ta cũng được cho là có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ, năng lực của một thủy thủ (seaman) và chuẩn úy (midshipman).

Thi trượt thường có nghĩa là phải phục vụ trên biển thêm 6 tháng nữa trước khi có thể thi lại. Một số người không bao giờ vượt qua nó. Việc hoàn thành thành công đã khiến midshipman trở thành “passed midshipman” (chuẩn úy đã qua sát hạch). Từ thế kỷ XVIII cho đến nửa sau của thế kỷ XIX, một chuẩn úy midshipman trong Hải quân Hoàng gia đã vượt qua kỳ thi đại úy (lieutenant’s examination) không tự động nhận được bổ nhiệm. Những midshipman có mối quan hệ chính trị được thăng chức trước, trong khi những người khác sẽ đợi đến lượt theo danh sách. Trong thời chiến, khi một số lượng lớn tàu và người có thể bị mất trong trận chiến, hầu hết các chuẩn úy đã qua đào tạo sẽ được thăng cấp sau 1 hoặc 2 năm, nhưng trong thời bình, thời gian chờ đợi có thể lâu đến mức midshipman cuối cùng sẽ bị coi là quá già và mất cơ hội bổ nhiệm.

Những chuẩn úy đã qua đào tạo đang chờ thăng cấp thường được bầu để trở thành đại phó (master’s mates), một tiểu sĩ quan cấp cao (high-ranking petty officer) hỗ trợ đại trưởng (master) thực hiện nhiệm vụ của mình, phục vụ với tư cách là phó cho các đại úy và chỉ huy những chiếc thuyền nhỏ. Một chuẩn úy trở thành đại phó được tăng lương từ £25s lên £316s mỗi tháng nhưng ban đầu làm giảm cơ hội nhận bổ nhiệm sĩ quan vì đại phó, cùng với đại trưởng, được cho là có xuất thân từ tầng lớp lao động. Tuy nhiên, theo thời gian, việc bổ nhiệm đại phó được coi là một phần bình thường của con đường dẫn đến bổ nhiệm sĩ quan; tình hình đã gây ra một số nhầm lẫn trong phần cuối của thế kỷ XVIII, khi hai vai trò song song – những đại phó đang cố gắng trở thành đại trưởng, và những cựu chuẩn úy đang làm việc cho một ủy ban – có cùng chức danh và trách nhiệm trên tàu.

Vào những năm đầu tiên của thế kỷ XIX, thuật ngữ “mate”, không có tiền tố master’s, được sử dụng cho những midshipman đã qua đào tạo, để phân biệt họ với những đại phó chưa từng là midshipman. Năm 1824, xếp hạng master’s assistant  (trợ lí cho đại trưởng) thay thế cho master’s mate (phó của đại trưởng), và mate tiếp tục được sử dụng một cách không chính thức bởi những midshipman đã qua đào tạo. Những thay đổi này đã giúp loại bỏ sự nhầm lẫn do lẫn lộn giữa các chuẩn úy chuyên ngành dẫn đường. Năm 1838, một Ủy ban Hoàng gia do Công tước Wellington chủ trì đã đề xuất việc thiết lập cấp bậc phó (mate) như một bước chính thức giữa chuẩn úy và đại úy. Năm 1861, mate bị bãi bỏ để nhường chỗ cho trung úy (sub-lieutenant).

Hải quân Hoa Kỳ (1794-1845)

Khi Quốc hội thành lập Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1794, chuẩn úy midshipman được phân loại là một chuẩn úy warrant officer trong Đạo luật Hải quân năm 1794 và họ được bổ nhiệm bởi Tổng thống Hoa Kỳ. Midshipmen có nhiệm vụ và trách nhiệm tương tự như trong Hải quân Hoàng gia, và thường là những thanh niên từ 14 đến 22 tuổi được đào tạo để trở thành sĩ quan hải quân. “Passed midshipman” (chuẩn úy đã qua sát hạch) được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1819, và là cấp bậc chính thức của Hải quân Hoa Kỳ.

Trong thời kỳ hòa bình kéo dài từ năm 1815 đến năm 1846, các chuẩn úy midshipmen có rất ít cơ hội thăng tiến và sự bổ nhiệm họ thường thông qua sự bảo trợ. Chất lượng kém của việc đào tạo sĩ quan trong Hải quân Hoa Kỳ trở nên rõ ràng sau Vụ Somers, một cuộc binh biến được cho là xảy ra trên tàu huấn luyện USS Somers vào năm 1842, và sau đó là vụ hành quyết chuẩn úy Philip Spencer. Spencer đã giành được vị trí của mình trên tàu Somers nhờ ảnh hưởng của cha mình, Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ John C. Spencer.

Học viên sĩ quan (thiếu sinh quân)

Hải quân Hoàng gia từ 1836

Trường Cao đẳng Hải quân Hoàng gia ban đầu đóng cửa vào năm 1837, sau đó phương pháp duy nhất để đào tạo chuẩn úy midshipmen trong Hải quân Hoàng gia là trên tàu. Năm 1844, cấp bậc “naval cadet” (học viên hải quân) được tạo ra, và để đủ điều kiện trở thành chuẩn úy midshipman, ứng viên phải đủ 14 tuổi, vượt qua kỳ thi cấp hạm đội thành công và có 2 năm phục vụ với tư cách là học viên hải quân (naval cadet) hoặc 3 năm phục vụ trong Hải quân. Sự suy giảm các sĩ quan có trình độ đã khiến Hải quân ra lệnh huấn luyện trên một con tàu đang thả neo cho tất cả các học viên, bắt đầu vào năm 1857 trên tàu HMS Illustrious, được thay thế bởi HMS Britannia vào năm 1859. Britannia được chuyển đến Portland vào năm 1862, và đến địa điểm hiện tại sau đó Đại học Hải quân Hoàng gia Britannia, Dartmouth năm 1863.

Bắt đầu từ những năm 1840, độ tuổi nhập học thông thường đối với các học viên sĩ quan điều hành (executive officer cadets), những người hướng đến chỉ huy tàu và hạm đội, là từ 12 đến 13 tuổi, và quá trình giảng dạy bao gồm 2 năm đào tạo trên lớp, trong thời gian đó các học viên được coi là học viên hải quân (naval cadets). Các học viên đạt điểm đậu hạng nhất trong học tập, kỹ năng đi biển và hạnh kiểm trong kỳ thi cuối kỳ của họ có thể nhận được tín chỉ cho thời gian đi biển lên đến 1 năm và có thể được xếp hạng là chuẩn úy midshipmen ngay sau khi tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng, các học viên đã phục vụ trên một con tàu huấn luyện đặc biệt trong 1 năm. Các học viên sau đó được đánh giá là chuẩn úy midshipmen và phục vụ trên hạm đội thêm hai năm nữa. Midshipmen sống trong khoang súng, canh gác và vận hành các xuồng nhỏ của con tàu. Họ nhận được hướng dẫn về hàng hải mỗi ngày. Sau tổng cộng 5 năm huấn luyện và đủ 19 tuổi, các chuẩn úy midshipmen đủ điều kiện để dự thi đại úy (lieutenant). Sau khi vượt qua kỳ thi đại úy, các chuẩn úy midshipmen được phong quân hàm trung úy (sub-lieutenants), và được chuyển đến Cao đẳng Hải quân Hoàng gia, Greenwich, mở cửa vào năm 1873 với tên gọi Đại học Hải quân (University of the Navy).

Bắt đầu từ năm 1903, việc đào tạo sĩ quan cho sinh viên quân đội và kỹ sư đã được cải tổ theo kế hoạch Selborne-Fisher, và các ứng viên sĩ quan kỹ thuật, điều hành bắt đầu gia nhập Hải quân theo cách tương tự, được gọi là “Đầu vào chung” (Common Entry). Trước đây, các học viên kỹ thuật đã được đào tạo riêng tại Trường Cao đẳng Kỹ thuật Hải quân Hoàng gia, Keyham, trường đã đóng cửa vào năm 1910. Năm 1903, một trường dự bị mới được mở tại Trường Cao đẳng Hải quân Hoàng gia, Osborne, trong một phần dinh thự yêu thích của Nữ hoàng Victoria nhưng không phải là một yêu thích của người kế vị Edward VII người đã tặng nó cho quốc gia vào năm 1902. Ban đầu, quá trình huấn luyện bao gồm 2 năm tại Osborne và 2 năm tại Dartmouth với tư cách là học viên, sau đó là 4 năm tại Dartmouth, rồi khoảng 3 năm thực hiện nhiệm vụ trên biển với tư cách là học viên trung cấp trước khi được thăng cấp lên trung úy (sub-lieutenant). Năm 1905, một tòa nhà mới được hoàn thành trên bờ để thay thế Britannia, được đặt tên là Đại học Hải quân Hoàng gia Britannia. Năm 1913, nhu cầu ngày càng tăng đối với các sĩ quan dẫn đến việc tuyển dụng những học sinh 18 tuổi tốt nghiệp các trường công lập, được gọi là “Đầu vào Đặc biệt” (Special Entry), và được tiến hành riêng biệt với các học viên của chương trình Selborne. Các học viên đầu vào đặc biệt được đào tạo trong khoảng 6 tháng trước khi phục vụ trong hạm đội với tư cách là chuẩn úy midshipman. Khi Thế chiến I bắt đầu vào năm 1914, tất cả các học viên tại Dartmouth nhanh chóng được huy động làm chuẩn úy midshipmen trong Hạm đội Dự bị. Trong chiến tranh, 2 midshipman, George Drewry và Wilfred Malleson đã được trao tặng Victoria Cross, phần thưởng cao quý nhất của Khối thịnh vượng chung Anh cho lòng dũng cảm, trong cuộc Đổ bộ lên Mũi Helles. Sau khi Thế chiến I kết thúc, sự phản đối kế hoạch Selborne-Fisher đã dẫn đến việc tái tách các sĩ quan điều hành và kỹ thuật thành các ngành riêng biệt, trong khi đầu vào chung và đầu vào đặc biệt được duy trì.

Sau Thế chiến II, một loạt cải cách khác, chịu ảnh hưởng bởi chất lượng của các sĩ quan được tạo ra bởi kế hoạch tuyển sinh đặc biệt và kinh nghiệm của các quốc gia khác trong việc đào tạo các ứng viên sĩ quan trong môi trường đại học, đã được khởi xướng để nâng cao chất lượng của các sĩ quan trong Hải quân. Năm 1949, độ tuổi nhập học tăng lên 16 và đến năm 1955, độ tuổi nhập học tăng lên 18 và yêu cầu tối thiểu phải có hai trình độ A. Sau năm 1957, các chuẩn úy không còn phục vụ trong hạm đội nữa. Năm 1972, tất cả các học viên đều trở thành chuẩn úy midshipman khi cấp bậc “cadet” (học viên) bị bãi bỏ.

Hải quân Hoa Kỳ từ 1845

Quốc hội Hoa Kỳ chính thức cho phép thành lập Học viện Quân sự Hoa Kỳ (United States Military Academy) vào năm 1802, nhưng phải mất gần 50 năm để phê duyệt một trường tương tự cho các sĩ quan hải quân. Một lý do chính của sự chậm trễ là các nhà lãnh đạo Hải quân thích hệ thống học nghề hơn, trích dẫn các sĩ quan nổi tiếng như Nelson và các thuyền trưởng trong Chiến tranh năm 1812, những người không theo học một trường hải quân chính thức nào. Tuy nhiên, sau Vụ Somers, các sĩ quan nhận ra rằng hệ thống đào tạo sĩ quan phải thay đổi để hiệu quả hơn.

George Bancroft, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải quân năm 1845, quyết định làm việc ngoài sự chấp thuận của Quốc hội và thành lập một học viện mới dành cho các sĩ quan. Ông thành lập một hội đồng do Commodore Perry đứng đầu để tạo ra một hệ thống đào tạo sĩ quan mới, và biến Pháo đài Severn cũ ở Annapolis thành một cơ sở mới được chỉ định là Học viện Hải quân Hoa Kỳ (United States Naval Academy) vào năm 1851. Các chuẩn úy đã học tại học viện trong 4 năm và được huấn luyện trên tàu vào mỗi mùa hè. Midshipman bắt đầu có nghĩa là “passed midshipman” (chuẩn úy đã qua sát hạch) vào thời điểm này, và một sinh viên tại Học viện Hải quân là một chuẩn úy midshipman. Cấp hiệu được tạo ra vào năm 1862, và những chuẩn úy đã qua sát hạch được thăng quân hàm khi có chỗ trống.

Năm 1865, Khoa Động cơ hơi nước được thành lập và các học viên máy (cadet engineers) lần đầu tiên được nhận vào học viện. Năm 1874, Quốc hội đã thay đổi chương trình giảng dạy để bao gồm 4 năm đào tạo tại giảng đường và 2 năm thực hiện nhiệm vụ trên biển trên một con tàu thông thường trước khi kiểm tra để trở thành chuẩn úy được bảo đảm (warranted midshipmen). Năm 1882, Quốc hội loại bỏ sự phân biệt trong đào tạo giữa kỹ sư máy (engineer) và học viên hải quân (naval cadet), đồng thời quy định các học viên sĩ quan (student officers) là học viên hải quân (naval cadets); cái tên được hoàn nguyên thành chuẩn úy midshipman vào năm 1902. Theo một đạo luật của Quốc hội được thông qua vào năm 1903, 2 suất bảo lãnh chuẩn úy được phép cho mỗi thượng nghị sĩ, dân biểu và đại biểu trong Quốc hội, 2 cho Đặc khu Columbia, và 5 tự do mỗi năm. Vào năm 1912, Quốc hội đã được ủy quyền trao quân hàm các chuẩn úy midshipmen vào ngày tốt nghiệp, và kết thúc hai năm phục vụ trên biển sau khi tốt nghiệp được yêu cầu trước đó với tư cách là chuẩn úy warrant officers.

Năm 1930, Học viện Hải quân được công nhận là một tổ chức công nghệ được phê duyệt. Năm 1933, một luật mới cho phép các Học viện Hải quân, Quân sự và Cảnh sát biển cấp bằng cử nhân khoa học (bachelor of science degree), và khóa 1933 là những người đầu tiên nhận được bằng này và được ghi trong bằng tốt nghiệp. Năm 1937, giám đốc của Học viện Hải quân được trao quyền trao bằng Cử nhân Khoa học cho tất cả sinh viên tốt nghiệp đương thời.

Hải quân khối thịnh vượng chung

Khi các nước thuộc địa của Đế quốc Anh thành lập lực lượng hải quân của riêng họ trong thế kỷ XX, các quốc gia khác bắt đầu sử dụng cấp bậc chuẩn úy midshipman. Ngày nay Úc, New Zealand, Nam Phi, Pakistan, Ấn Độ, Singapore, Sri Lanka, Bangladesh và Kenya sử dụng cấp bậc này. Trước năm 1968, Canada cũng sử dụng cấp bậc chuẩn úy midshipman, cho đến khi Đạo luật Quốc phòng hợp nhất Hải quân Hoàng gia Canada với Lục quân và Không quân thành một quân đội duy nhất, được gọi là Các Lực lượng Canada (Canadian Forces). Là một phần của đạo luật, cấp bậc midshipman đã được thay thế bằng cấp bậc naval cadet (học viên hải quân).

Chuẩn úy “Snotty”

Trong tiếng lóng của Hải quân Hoàng gia, một midshipman đôi khi được gọi là “snotty” (nghĩa đen là “thò lò mũi xanh”). Hai câu chuyện phổ biến đưa ra nguồn gốc của thuật ngữ này: câu chuyện đầu tiên cho rằng nó phát sinh từ tình trạng thiếu khăn tay của những midshipman, những người do đó sẽ dùng tay áo để lau mũi. Hoàng tử William, sau này là William IV, đôi khi được coi là một ví dụ phổ biến về cách làm này của những chuẩn úy midshipmen. Một câu chuyện khác cho rằng ba chiếc cúc áo trước đây được khâu vào cổ tay áo khoác của cấp chuẩn úy midshipmen được đặt ở đó để ngăn họ chùi mũi vào tay áo.

Sử dụng thời hiện đại

Hải quân Hoàng gia

Trong Hải quân Hoàng gia hiện đại, chuẩn úy midshipman là cấp bậc sĩ quan thấp nhất, và được xếp ngang với thiếu úy (second lieutenant) trong Quân đội Anh và sĩ quan phi công (pilot officer) trong Lực lượng Không quân Hoàng gia và trên tất cả các cấp bậc nhập ngũ và chỉ định. Phù hiệu cấp bậc của một midshipman, ít thay đổi kể từ thời Napoléon, được gọi là “turnback” (phục chức): một miếng vải trắng có khuy vàng và một sợi dây trắng xoắn ở mỗi bên cổ áo.

Các sĩ quan tương lai phải có ít nhất năm GCSE (Chứng chỉ giáo dục trung học phổ thông), bao gồm tiếng Anh và toán, cộng với ít nhất 72 điểm UCAS (biểu điểm mới) từ ít nhất hai cấp độ A hoặc các bằng cấp phù hợp khác (mỗi bằng cấp phải trên 45 điểm UCAS (biểu điểm cũ)). Họ phải vượt qua cuộc đánh giá kéo dài hai ngày rưỡi, được gọi là Hội đồng phỏng vấn Hạm đội (Admiralty Interview Board) và kiểm tra y tế. Kể từ năm 2013, không còn trường hợp những người gia nhập Hải quân với tư cách là sinh viên tốt nghiệp đại học bắt đầu với tư cách là thiếu úy (sub-lieutenants), với những người chưa tốt nghiệp tham gia với tư cách là chuẩn úy midshipmen. Sinh viên tốt nghiệp và không tốt nghiệp đều bắt đầu với tư cách là chuẩn úy midshipmen, đồng thời chờ đợi để được thăng chức.

Huấn luyện cơ bản chung (đào tạo sĩ quan ban đầu) cho các sĩ quan Hải quân Hoàng gia diễn ra tại Cao đẳng Hải quân Hoàng gia Britannia. Đào tạo kéo dài đến 1 năm tùy thuộc vào chuyên ngành; tất cả chuẩn úy midshipmen tham gia ít nhất hai học kỳ đầu tiên, mỗi học kỳ kéo dài 14 tuần. Cho đến khi họ hoàn thành khóa huấn luyện hạm đội ban đầu, cả các chuẩn úy midshipmen và thiếu úy (sub-lieutenant) tại Cao đẳng Hải quân Hoàng gia Britannia đều không sử dụng cấp bậc thực chất của họ mà thay vào đó sử dụng cấp bậc học viên sĩ quan (officer cadet).

Trong 7 tuần huấn luyện đầu tiên, các học viên sĩ quan học về quân sự hóa và nhận thức về biển, tập trung vào tìm hiểu về môi trường quân sự, cùng với các kỹ năng lãnh đạo và đội ngũ. Trong 7 tuần thứ hai, các học viên sĩ quan học các kỹ năng cần thiết của sĩ quan biển, bao gồm hàng hải và môi trường biển, nghiên cứu chiến lược và sinh tồn cơ bản trên biển. Trong học kỳ thứ hai, các học viên sĩ quan dành 6 tuần trong Thời gian đi biển ban đầu IST (Initial Sea Time), phục vụ trên các tàu chủ lực (capital warship) với tư cách là cấp dưới. Sau khi hoàn thành Thời gian đi biển ban đầu, các học viên sĩ quan trở lại Dartmouth trong 4 tuần để hoàn thành đánh giá khả năng lãnh đạo cuối cùng của họ, Bài tập lãnh đạo hàng hải MARL (Maritime Leadership Exercise). MARL có thể được hoàn thành trước IST tùy thuộc vào lịch trình. Nếu họ đã thành công, các sĩ quan của tất cả các ngành sẽ đỗ tốt nghiệp.

Sau khi hoàn thành khóa đào tạo sĩ quan ban đầu, các học viên sĩ quan dự thi đại học, kỹ thuật, hậu cần và sĩ quan chuyên ngành không quân sẽ chuyển sang giai đoạn đào tạo thứ hai của họ ở những nơi khác trong Hải quân Hoàng gia. Các học viên chuyên về chiến tranh (midshipmen specializing in warfare) vẫn ở lại trường đại học để tham gia khóa học Dự bị cho Sĩ quan Chiến tranh Cơ bản (Initial Warfare Officer’s Foundation), hoàn thành một phần của bằng cấp cơ sở về nghiên cứu hải quân (tương đương với 2/3 bằng cử nhân), sau khi hoàn thành khóa đào tạo chuyên nghiệp ban đầu. Các sĩ quan có thể hoàn thành bằng cấp thông qua đào tạo từ xa với Đại học Mở, mặc dù không bắt buộc phải hoàn thành.

Hải quân Hoàng gia Australia

Một chuẩn úy midshipman trong Hải quân Hoàng gia Úc (RAN) giữ quyết định bổ nhiệm sĩ quan, có hiệu lực kể từ ngày ký. Các ứng viên sĩ quan vào RAN ở các cấp bậc khác nhau tùy thuộc vào kinh nghiệm trước đây hoặc trình độ bằng cấp; những sinh viên tốt nghiệp khóa học 3 năm, những người đăng ký không đủ tiêu chuẩn đầu vào và những thủy thủ chuyển đổi dưới cấp bậc thủy thủ chính (leading seaman) sẽ trở thành midshipman.

Khi gia nhập RAN, chuẩn úy midshipmen hoàn thành khóa đào tạo sĩ quan ban đầu kéo dài 6 tháng (Khóa học sĩ quan mới nhập học) tại Cao đẳng Hải quân Hoàng gia Úc (Royal Australian Naval College). Sau đó, tất cả các thành viên phục vụ 6 tháng trong hạm đội để hoàn thành khóa đào tạo tiếp tục Chứng chỉ Sơ cấp PQ (Primary Qualification). Chuẩn úy midshipmen đầu vào trực tiếp tiếp tục quá trình đào tạo bình thường của họ và chuẩn úy đầu vào Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc ADFA (Australian Defence Force Academy) sẽ đến Canberra để học tại ADFA trong năm thứ hai của họ trong Hải quân. Midshipmen lấy bằng đại học trong suốt 3 năm, đồng thời hoàn thành các phần của khóa huấn luyện hải quân của họ. Chuẩn úy midshipmen của ADFA cũng là sinh viên đại học của Đại học New South Wales UNSW (University of New South Wales). Khi họ tốt nghiệp UNSW tại ADFA sau khi hoàn thành chương trình đại học 3 hoặc 4 năm, họ sẽ làm như vậy với bằng cấp được UNSW công nhận hoàn toàn – bằng cấp tương tự mà sinh viên tốt nghiệp từ cơ sở của UNSW ở Sydney nhận được. Trong quá trình Huấn luyện Quân binh chủng Riêng biệt SST (Single Service Training) tại ADFA, chuẩn úy midshipmen có cơ hội quay trở lại biển trong thời gian SST cũng như thăm các cơ sở trên bờ để huấn luyện liên quan đến PQ.

Hải quân Hoàng gia New Zealand

Trong Hải quân Hoàng gia New Zealand (RNZN), chuẩn úy midshipmen là cấp bậc sĩ quan thấp nhất dành cho các sĩ quan đang được đào tạo và được giữ lại sau khi hoàn thành khóa đào tạo ban đầu bởi những người không có bằng đại học. Không giống như cấp bậc sĩ quan trong Quân đội, chuẩn úy midshipmen được coi là sĩ quan nhưng không có quân hàm. RNZN có khoảng 60 chuẩn úy đang phục vụ tại một thời điểm.

Chuẩn úy midshipman bắt đầu sự nghiệp của họ tại Khóa đào tạo chung dành cho sĩ quan sơ cấp (Junior Officer Common Training), kéo dài 23 tuần. Sau khi hoàn thành khóa đào tạo ban đầu, chuẩn úy midshipman phục vụ trên tàu trong một thời gian ngắn, sau đó là khóa đào tạo chuyên môn trong 16 tuần. Sau khoảng 2 năm trong Hải quân, chuẩn úy midshipman được thăng quân hàm. Các sĩ quan đã nhập ngũ với bằng đại học được thăng cấp trung úy (sub-lieutenant) sau khi hoàn thành Khóa đào tạo chung dành cho sĩ quan sơ cấp. Các sĩ quan không có bằng cấp có tùy chọn lấy bằng đại học khi phục vụ trong Hải quân.

Hải quân Nam Phi

Một chuẩn úy midshipman trong Hải quân Nam Phi (SAN) là một sĩ quan có cấp bậc thấp nhất. Các ứng viên sĩ quan là công dân trong độ tuổi từ 18 đến 22, đang học lớp 12 hoặc tốt nghiệp trung học phổ thông với nền tảng kiến thức về toán học và khoa học. Các học viên ban đầu trải qua 1 năm đào tạo tại Trường Cao đẳng Hải quân Nam Phi (South African Naval College) ở Vịnh Gordon, cách Cape Town khoảng 55 km về phía đông nam, và sau khi tốt nghiệp được bổ nhiệm làm chuẩn úy midshipman. Sau đó, các chuẩn úy có thể học thêm 3 năm tại Học viện Quân sự Nam Phi, và khi tốt nghiệp sẽ nhận được bằng B Mil của Đại học Stellenbosch.

Hải quân Ấn Độ

Chuẩn úy midshipman trong Hải quân Ấn Độ bắt đầu sự nghiệp của họ với tư cách là học viên tại Học viện Quốc phòng (National Defence Academy) hoặc Học viện Hải quân Ấn Độ (Indian Naval Academy), nơi họ học trong khoảng 3 năm. Sau khi tốt nghiệp, họ nhận được bằng BTech của Đại học Jawaharlal Nehru và được chỉ định huấn luyện trên tàu trong 1 năm. Sau 6 tháng trên tàu huấn luyện, các học viên được thăng cấp lên chuẩn úy (midshipman). Khi kết thúc khóa huấn luyện, các chuẩn úy được hội đồng kiểm tra và được phép thăng cấp lên trung úy (sub-lieutenant).

Hải quân Pakistan

Các học viên (cadet) trong Hải quân Pakistan trải qua khóa huấn luyện đầu tiên kéo dài 18 tháng tại Học viện Hải quân Pakistan (Pakistan Naval Academy). Họ học các môn nhân văn, kỹ thuật, nghiệp vụ và kỹ thuật. Sau khi học xong, họ được bổ nhiệm làm chuẩn úy midshipman và thực hiện thêm 6 tháng huấn luyện trên biển. Họ được giao cho các hoạt động, kỹ thuật vũ khí, kỹ thuật cơ khí hoặc hậu cần. Sau khi vượt qua kỳ kiểm tra hạm đội cuối cùng, họ được thăng cấp bậc thiếu úy (sub-lieutenant).

Trong Hải quân Hoa Kỳ hiện đại, một chuẩn úy midshipman được phân loại là sĩ quan trận tuyến (officer of the line), mặc dù việc thực thi quyền hạn của họ bị hạn chế bởi tình trạng đào tạo. Về mặt pháp lý, chuẩn úy midshipman là một cấp bậc đặc biệt của sĩ quan được xếp hạng giữa cấp bậc hạ sĩ quan cao cấp (E-9) và cấp bậc thấp nhất của chuẩn úy trưởng chief warrant officer (W-2, trong Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hoa Kỳ, hiện không sử dụng cấp bậc chuẩn úy warrant officer (W-1)).

Các học viên tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ USNA (United States Merchant Marine Academy) được bổ nhiệm vào cơ cấu Hải quân Hoa Kỳ với tư cách là chuẩn úy midshipmen, bởi riêng Tổng thống, mà không cần sự xác nhận của Thượng viện. Các sinh viên tại Học viện Hàng hải Thương nhân Hoa Kỳ USMMA (United States Merchant Marine Academy) được Bộ trưởng Hải quân bổ nhiệm với tư cách là chuẩn úy midshipmen, Lực lượng Dự bị Hải quân Hoa Kỳ, sử dụng thẩm quyền được Tổng thống ủy quyền và cũng không phải chịu sự xác nhận của Thượng viện. Các sinh viên trong Lực lượng Huấn luyện Sĩ quan Dự bị Hải quân NROTC (Naval Reserve Officer Training Corps) cũng được Bộ trưởng Hải quân bổ nhiệm với tư cách là chuẩn úy midshipmen vào Lực lượng Dự bị Hải quân Hoa Kỳ, mà không cần sự xác nhận của Thượng viện. Hội sinh viên tại USNA là Lữ đoàn Chuẩn úy (Brigate of Midshipmen), và hội sinh viên tại USMMA là Trung đoàn Chuẩn úy (Regiment of Midshipmen).

Nói chung, cần có sự đề cử từ một thành viên của Quốc hội hoặc Phó Tổng thống để được bổ nhiệm vào USNA (Học viện Hải quân Hoa Kỳ). Một đề cử chưa chắc chắn là sẽ được bổ nhiệm; trong một năm điển hình, khoảng 38% người được đề cử nhận được tuyển chọn. Hiện tại, mỗi thành viên của Quốc hội và Phó Tổng thống có thể có 5 suất đề cử tham dự Học viện Hải quân bất cứ lúc nào. Các nguồn đề cử khác bao gồm Bộ trưởng Hải quân, người có thể đề cử 170 thành viên nhập ngũ của Hải quân và Thủy quân lục chiến chính quy và dự bị cho Học viện Hải quân mỗi năm, và Tổng thống có thể đề cử một số lượng không giới hạn con cái của các quân nhân chuyên nghiệp cho tối đa 100 các đề cử mỗi năm. Ngoài ra, con cái người nhận của Huân chương Danh dự và các học viên được chọn của Đơn vị Danh dự với các đơn vị Xuất sắc của JROTC không cần đề cử mà chỉ cần đủ điều kiện để được nhận. Học viện Hàng hải Thương nhân Hoa Kỳ chỉ chấp nhận đề cử từ các thành viên của Quốc hội. Hiện tại không có đơn vị danh dự nào của Tổng thống, Phó Tổng thống, đơn vị trực thuộc quân đội, JROTC, ROTC hoặc Chỉ huy Đơn vị hoặc Huân chương Danh dự được phép tham gia USMMA.

Chuẩn úy midshipman tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ, Học viện Hàng hải Thương nhân Hoa Kỳ và trong NROTC mặc đồng phục tuân thủ các tiêu chuẩn được thiết lập cho các sĩ quan của Hải quân, với phù hiệu ở vai và tay áo thay đổi theo năm học hoặc cấp bậc sĩ quan midshipman theo quy định của Chương 6 của Quy chế Đồng phục Hải quân. Những midshipmen đeo mỏ neo màu vàng làm phù hiệu chính trên mũ và bảng cầu vai và những chiếc mỏ neo trơn màu vàng làm phù hiệu ở cổ áo trên trang phục phục vụ và lễ phục đầy đủ. Các chuẩn úy chuyên ngành hàng hải trong NROTC đeo phù hiệu Đại bàng, Quả cầu và Mỏ neo màu vàng thay cho phù hiệu mỏ neo rối mà tất cả các chuẩn úy midshipmen khác đều đeo.

Chuẩn úy midshipmen tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ học tập chương trình cốt lõi về kỹ thuật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, đồng thời tham gia “hành trình trên mặt nước” bắt buộc với một con tàu đang hoạt động trong suốt mùa hè. Sau khi tốt nghiệp, chuẩn úy midshipmen được phong hàm thiếu úy (ensign) trong Hải quân hoặc thiếu úy (second lieutenant) trong Thủy quân lục chiến.

Chuẩn úy midshipmen tại Học viện Hàng hải Thương nhân Hoa Kỳ học một chương trình giảng dạy cốt lõi tương tự, ngoại trừ việc họ được chia thành các chương trình kỹ thuật và boong (hàng hải dẫn đường). Ngoài ra, họ thường dành một năm trên biển để làm việc với tư cách là học viên (cadet) trên các tàu buôn được gắn cờ Hoa Kỳ, ghé thăm các cảng trên khắp thế giới. Khi tốt nghiệp, họ có hai lựa chọn:

– (1) một công việc trong ngành hàng hải trên bờ hoặc đi trên các tàu thương mại treo cờ Hoa Kỳ, cộng với một ủy ban Dự bị của Hải quân Hoa Kỳ, hoặc

– (2) một ủy ban đang hoạt động trong bất kỳ quân binh chủng nào của Hoa Kỳ (Quân đội, Thủy quân lục chiến, Hải quân, Không quân, Cảnh sát biển, Cơ quan Khí quyển và Hải dương học Quốc gia hoặc Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ) với tư cách là thiếu úy (ensign hoặc second lieutenant).

Các nước khác

Ngày nay, cấp bậc tương đương với chuẩn úy midshipman tồn tại ở nhiều quốc gia. Sử dụng học viên midshipman của Hoa Kỳ hoặc học viên midshipman của hạm đội trước của Vương quốc Anh làm cơ sở để so sánh, cấp bậc tương đương sẽ là học viên hải quân đang được đào tạo để trở thành sĩ quan. Sử dụng chuẩn úy midshipman của Vương quốc Anh sau hạm đội để so sánh, cấp bậc sẽ là sĩ quan cấp thấp nhất trong cơ cấu cấp bậc và tương tự như một quân hàm Hoa Kỳ về vai trò và trách nhiệm.

Hải quân Hà Lan từ đầu thế kỷ XVII đã bao gồm cấp bậc chuẩn úy midshipman có nghĩa đen là “quý ông trẻ tuổi” (tiếng Hà Lan: Adelborst); ngày nay, adelborsten đào tạo tại Đại học Hải quân Hoàng gia Hà Lan (tiếng Hà Lan: Koninklijk Instituut voor de Marine) trong 3 năm. Các học viên sĩ quan (officer cadets) trong hải quân Đức bắt đầu được đào tạo tại Học viện Hải quân Mürwik (tiếng Đức: Marineschule Mürwik) ở Flensburg – Mürwik giữ cấp bậc nhập ngũ với ứng viên sĩ quan đủ điều kiện (tiếng Đức: Offizieranwärter), viết tắt là OA. Sau khoảng một năm, họ được thăng cấp Seekadetten, tương đương với hạ sĩ quan (NCO) cấp Mate (tiếng Đức: Maat), và chuyển đến Đại học Lực lượng Vũ trang Liên bang Đức. Khoảng 9 tháng sau, họ được thăng hạng Fähnrich zur See, tương đương với hạng NCO Boatswain (tiếng Đức: Bootsmann). Sau 30 tháng huấn luyện toàn diện, họ được thăng cấp bậc ứng viên sĩ quan cuối cùng, Oberfähnrich zur See, tương đương với cấp NCO Hauptbootsmann, và sau khoảng 4 tổng số năm đào tạo tốt nghiệp với bằng đại trưởng (master’s degree).

Trong nhiều ngôn ngữ lãng mạn, bản dịch theo nghĩa đen của thuật ngữ địa phương cho “midshipman” sang tiếng Anh là “Navy Guard”, bao gồm garde-marine của Pháp, guardia marina của Tây Ban Nha, guarda-marinha của Bồ Đào Nha, và guardiamarina của Ý, và trong hầu hết các trường hợp thuật ngữ này đề cập đến sĩ quan hải quân cấp thấp nhất. Cấp bậc garde de la Marine của Pháp được bắt đầu vào năm 1670, khi một văn phòng của chế độ quân chủ lựa chọn các quý ông trẻ tuổi từ giới quý tộc để phục vụ Nhà vua trong Gardes de la Marine. Khái niệm về Gardes được vay mượn từ các đơn vị bảo vệ khác nhau trong Maison militaire du roi de France. Năm 1686, những vệ binh này được tổ chức thành các đại đội thiếu sinh quân tại các cảng Brest, Rochefort và Toulon. Không giống như những midshipmen trong Hải quân Hoàng gia, Gardes chủ yếu được huấn luyện trên bờ và tập trung vào lý thuyết và diễn tập quân sự hơn là các kỹ năng thực hành về tác xạ, hàng hải và đi biển. Sau khi Bourbon Philip V của Tây Ban Nha kế vị ngai vàng Tây Ban Nha, hệ thống giáo dục sĩ quan hải quân của Pháp đã lan sang Tây Ban Nha. Hải quân Tây Ban Nha đã tạo ra cấp bậc Guardia marina vào năm 1717, với sự hình thành tại Cadiz của Đại đội Chuẩn úy Hoàng gia (Royal Company of Midshipmen, tiếng Tây Ban Nha: Real Compañía de Guardias Marinas).

Bằng cách hạn chế quân đoàn sĩ quan Pháp chỉ gồm các thành viên của giới quý tộc, không có đủ Gardes để điều khiển tất cả các con tàu trong thời chiến. Để lấp đầy khoảng trống, các tình nguyện viên đã được tuyển dụng tạm thời từ dịch vụ thương gia; họ được phép giữ cấp bậc vĩnh viễn trong hải quân bắt đầu từ năm 1763. Những sĩ quan chuyên nghiệp này mặc đồng phục màu xanh lam để phân biệt với Gardes de la Marine mặc đồng phục màu đỏ. Sau cuộc cách mạng, ý nghĩa hoàng gia của thuật ngữ garde Marine đã dẫn đến việc thay thế nó bằng aspirant (học viên sĩ quan), và sau đó là élèves de la Marine (ứng cử viên sĩ quan hải quân). Việc đào tạo sĩ quan hải quân Pháp đương đại vẫn phản ánh cấu trúc này: sinh viên tại École navye bắt đầu năm đầu tiên với tư cách là élève-officier, được thăng cấp vào năm thứ hai với tư cách là aspirant, và vào năm thứ ba họ được bổ nhiệm làm thiếu úy (sub-lieutenant, tiếng Pháp: Enseigne de vaisseau de deuxième classe). Trong một từ điển Pháp-Anh hiện đại, élève officier được dịch là midshipman, nhưng cả thuật ngữ lịch sử garde-marine và thuật ngữ hiện đại dành cho ứng viên sĩ quan, aspirant, cũng tương đương với midshipman./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *